-Ngư dân của Việt Nam ngày càng gặp khó khăn, bất lợi trong sản xuất để mưu sinh, do đó họ chưa thật sự là trụ cột quan trọng nhất trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo.

LTS: Chiều 31/10, tại phiên thảo luận Kinh tế - xã hội ở nghị trường, Phó trưởng đoàn ĐBQH Thanh Hóa, ông Lê Nam, đã có bài phát biểu về vấn đề bảo vệ ngư dân, biển đảo và chủ quyền Quốc gia. Xin giới thiệu bài phát biểu này.

Sau kỳ họp thứ 5 đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa đã ra thăm quần đảo Trường Sa. Chúng tôi mang theo tình cảm, sự gắn bó máu thịt của 3,5 triệu con dân Thanh Hóa, chúng tôi mang phiên bản trống đồng Đông Sơn ra Trường Sa, thêm một sự khẳng định về chủ quyền Việt Nam đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.

{keywords}
ĐBQH Lê Nam. Ảnh: Lê Anh Dũng

Các đại biểu Quốc hội đã chứng kiến những gian lao, những quyết tâm, tình yêu, tinh thần trách nhiệm với người lính sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Được biết Chính phủ mua thêm tàu ngầm, máy bay, các vũ khí hiện đại tăng cường sức chiến đấu cho quân đội. Đó là việc phải làm và tiếp tục phải làm.

Qua báo cáo của Chính phủ cũng thấy nhà nước ta có những chuyển biến rất tích cực trong năm nay về hoạt động đối ngoại. Thật nhiều cảm xúc khi Chủ tịch nước trao cho Tổng thống Mỹ bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946. Cảm xúc về độc lập tự do hạnh phúc dân chủ cộng hòa. Hoạt động đối ngoại kiên trì, trung thành tuyệt đối với lợi ích quốc gia dân tộc, đảm bảo theo nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn biến theo phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh là vô cùng quan trọng để bảo vệ Tổ quốc, giữ nguyên bảo vệ chủ quyền trên biển Đông.

Bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng tăng cường khả năng chiến đấu quân đội bằng hoạt động đối ngoại đúng đắn là rất quan trọng nhưng chỉ thực hiện được khi đó là sự nghiệp của nhân dân.

Quan điểm đường lối ấy luôn đậm nét trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, quan điểm đúng đắn ấy cho thấy vai trò của ngư dân cực kỳ quan trọng, không chỉ trong nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế - xã hội mà là lực lượng chủ yếu trong bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Lật lại các hồ sơ tài liệu, tổ chức nhiều cuộc làm việc gặp gỡ tiếp xúc theo chuyên đề với cử tri là ngư dân. chúng tôi đánh giá rằng 2 thập kỷ qua Đảng, nhà nước đã sớm có rất nhiều chủ trương, chính sách dành cho phát triển kinh tế biển và hỗ trợ ngư dân.

{keywords}
Thuyền cá của ngư dân. Ảnh: Duy Tuấn

Cuối những năm 90 đã có chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình vận tải biển, cơ khí biển, bãi ngang, hỗ trợ dầu v.v... hàng ngàn tỷ đồng dành cho kinh tế biển và hỗ trợ nhân dân.

Khách quan mà nói những chính sách ấy cũng đã có mặt tích cực đi vào cuộc sống. Nhiều chợ cá, cảng cá, nơi neo đậu tàu thuyền, nơi trú bão đã phát huy tác dụng nhưng cũng phải thừa nhận rằng công sức, tiền bạc bỏ ra rất nhiều nhưng rốt cuộc đã bay theo những tư duy nhiệm kỳ lãng mạn còn hệ quả thì xuyên thế kỷ. Những bước rẽ vẫn còn đau như Vinalines, Vinashin và những khoản nợ vô vọng của ngân hàng phát triển.

Tiền bạc bỏ ra như vậy nhưng hiện nay 70% tàu thuyền của ngư dân cũ nát công suất dưới 45cv không đủ điều kiện tham gia vùng đánh cá vịnh Bắc bộ chưa nói gì đi Hoàng Sa, Trường Sa. Phương thức đánh bắt vẫn như xưa và do chỉ ở ven bờ tài nguyên ngày càng cạn kiệt nên dùng mìn và xung điện tăng lên.

Việc thành lập tổ đoàn kết trên biển là một chủ trương rất hay nhưng không thực hiện được. Ra biển là đối mặt với hiểm nguy, mãi còn câu ca buồn "thương người ngư phủ hồn treo cột buồm".

Do những khó khăn trên nên khi tham gia vào vùng đánh cá chung ngư dân Việt Nam luôn bị lép vế với ngư dân Trung Quốc do họ có tàu lớn hơn, được hỗ trợ chu đáo hơn, được bảo vệ, quản lý chặt chẽ hơn. Vì vậy, nên sản xuất của ngư dân thua lỗ, đang diễn ra tình trạng rất đáng báo động, ngư dân ta bỏ đánh bắt, đi làm thuê cho tàu cá Trung Quốc.

Các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam chủ yếu hoạt động ven bờ, thuần về kiểm tra thủ tục hành chính, còn lực lượng hoạt động hỗ trợ ngư dân trên biển, duy trì luật pháp Việt Nam thì thiếu vắng.

Hiện có nhiều cơ quan liên quan chức năng đến biển đảo nhưng lại thiếu một cơ quan được giao trách nhiệm quản lý nhà nước rõ ràng và để hỗ trợ, giúp đỡ ngư dân thật sự có hiệu quả. Thực trạng trên đây cho thấy ngư dân của Việt Nam ngày càng gặp khó khăn, bất lợi trong sản xuất để mưu sinh, do đó họ chưa thật sự là trụ cột quan trọng nhất trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Gần đây, với sự nỗ lực của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, với chương trình hỗ trợ ngư dân đánh bắt ở biển xa dành cho các tỉnh miền Trung theo Quyết định 48 của Thủ tướng Chính phủ, sau 3 năm đã hỗ trợ cho ngư dân 760 tỷ đồng.

Mặc dù số tiền đang còn ít ỏi, thời gian chưa dài và vẫn còn nhiều bất cập nhưng đã có tác dụng rất tích cực, được ngư dân một số tỉnh hoan nghênh. Nhưng chính sách đó chỉ có khả năng hỗ trợ cho một số ít ngư dân và thực trạng chung khó khăn của ngư dân vẫn đang còn nguyên đó.

Bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông đi liền với chính sách đối với ngư dân là việc rất đại sự, thuộc trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành ở trung ương và chính quyền các cấp.

Chính phủ có đề nghị gì với Quốc hội để có cơ chế bền vững dành cho ngư dân? Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nên dành những khoản vay ưu đãi cho ngư dân như với thị trường bất động sản không?

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ làm gì để thực hiện mong ước của Bộ trưởng Cao Đức Phát phát biểu ngày 9/9/2013 tại thành phố Đà Nẵng: "Chúng tôi ước gì xung quanh đảo Trường Sa toàn tàu của ngư dân ta, lúc nào cũng đông nghịt, trên 1.000 chiếc, đồng nghĩa với hơn 10.000 ngư dân có mặt trên biển".

Ước mong của Bộ trưởng Cao Đức Phát tôi nghĩ phải trở thành chương trình, kế hoạch của Chính phủ để đến năm 2015 chúng ta có mấy trăm tàu. Đến năm 2020 sẽ có hàng ngàn tàu. Ý tưởng đó nếu thành hiện thực thì tôi tin ngư dân cả nước bây giờ và cả về sau sẽ rất biết ơn.

  • Châu Quyên (ghi)