Chuyến thăm Trung Quốc của thủ tướng Anh David Cameron hồi đầu tháng này trở thành tâm điểm của báo giới, khi nguyên thủ của một trong 8 nước cường quốc thế giới tỏ ra khá "nịnh" Bắc Kinh.
Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc "khinh thường" nước Anh ra mặt khi tuyên bố: "Anh chỉ là một đất nước già nua, dành cho du lịch và học tập". Tờ báo này thậm chí còn kêu gọi chính quyền của Thủ tướng Cameron nên chấp nhận thực tế rằng trong mắt người Trung Quốc, Anh không phải là một cường quốc.
Giải thích lại, ông Cameron nói rằng lợi ích kinh tế là điều nước Anh mong muốn nhất, và người Anh cần Trung Quốc như một đối tác thương mại quan trọng hàng đầu. Phải chăng đó là một chỉ dấu cho thấy "tâm lý phù Trung" đã lan tỏa từ các nước nhỏ, cho đến các trung cường?
Thủ tướng Anh David Cameron và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Ảnh: Getty Images |
Từ các nước nhỏ đến trung cường, và đại cường
Năm 2010, Trung Quốc chính thức trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Kinh tế phát triển nhanh cho phép Trung Quốc mở rộng đầu tư ra nước ngoài, đồng thời tự nghiên cứu và trang bị các loại vũ khí mới cho quân đội. Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) từng bị xem là "hổ giấy", ngày nay là một đội quân khổng lồ với trang bị hiện đại.
"Trỗi dậy hòa bình", khái niệm mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc hay nhắc đến mỗi khi nói về sự vươn lên của Trung Quốc, không làm Mỹ yên tâm. Washington thấy rõ tham vọng của Bắc Kinh khi sử dụng sức mạnh đồng tiền làm "mồi nhử" các nước nhỏ tiến gần lại mình, rồi tiến hành thu lợi từ tài nguyên và khoáng sản. Trong khi Trung Quốc "khát dầu", "khát tài nguyên" thì các nước nhỏ kém phát triển lại "khát tiền" cho các chương trình nhân sinh và phát triển kinh tế.
Điển hình là các nước châu Phi, "lòng hào phóng" của Trung Quốc khiến các quốc gia này mở cửa rộng hơn cho các nhà đầu tư Trung Quốc. Năm 2000, Trung Quốc cùng các quốc gia châu Phi thiết lập Diễn đàn hợp tác kinh tế Trung - Phi (FOCAC). Khi đó, giá trị thương mại song phương chỉ đạt 10 tỉ USD, đến năm 2011 đã tăng lên 166 tỉ USD, Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành đối tác thương mại lớn nhất của châu Phi.
Tuy nhiên, dòng tiền đầu tư ào ạt đổ vào Lục địa Đen cộng với luồng di cư của công nhân Trung Quốc, biến các quốc gia này trở thành lãnh thổ đặc biệt không tuyên bố của Trung Quốc. Trong khi các quốc gia phương Tây chỉ trích và xem đây là một hình thức thực dân kiểu mới, Trung Quốc luôn lên tiếng biện hộ rằng kinh tế mới là trọng tâm trong mối quan hệ. Viện trợ, cho vay không điều kiện và lãi suất thấp, hay thậm chí xóa nợ, một mặt giúp các nước châu Phi phát triển cơ sở hạ tầng, mặt khác sinh lợi cho Trung Quốc.
Tại châu Á, Trung Quốc thắt chặt quan hệ với Pakistan, đồng minh cực kì quan trọng của Mỹ. Trung Quốc đã khéo léo đào sâu mâu thuẫn giữa Mỹ và Pakistan đồng thời tung tiền của "lôi kéo" nước này về phía mình. Ngoài đầu tư kinh tế, Trung Quốc còn hợp tác và bán vũ khí cho Pakistan dựa vào ưu thế giá rẻ.
Nắm được Pakistan, Trung Quốc sẽ đồng thời kiềm chân được cả Ấn Độ và Mỹ, có thời gian rảnh tay thực hiện kế hoạch "vươn ra đại dương". Thủ tướng Pakistan, Nawaz Sharif, trong chuyến thăm Bắc Kinh đã hết lời ca ngợi mối quan hệ "ngọt hơn mật" giữa Bắc Kinh và Islamabad.
Tại Đông Nam Á, Trung Quốc "ve vãn" Campuchia bằng các hợp đồng phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng và viện trợ quân sự. Trong suốt 20 năm, Trung Quốc luôn là nhà đầu tư lớn nhất tại Campuchia với tổng giá trị hơn 9 tỉ USD. Khoản tiền này không lớn, nhưng đối với một đất nước như Campuchia, đó là một con số khổng lồ.
Nhờ vào số tiền này, Trung Quốc gây áp lực chính trị lên Campuchia nhằm tạo được lợi thế trong quan hệ với các nước ASEAN. Năm 2012, lần đầu tiên trong 45 năm, Hội nghị ASEAN do Campuchia chủ trì đã kết thúc mà không đưa ra được tuyên bố chung do bất đồng giữa các bên về vấn đề biển Đông.
Chuyến thăm của Thủ tướng Anh được đánh giá là động thái xoa dịu và hàn gắn mối quan hệ với Trung Quốc sau vụ việc ông Cameron đón tiếp Đạt Lai Lạt Ma hồi năm 2012. Nước Anh đang vừa muốn giữ mối quan hệ tốt với Washington, vừa muốn tiến lại gần hơn với Bắc Kinh, để đổi lấy các lợi ích về kinh tế. Rõ ràng, các chính sách của nước Anh hướng tới Châu Á - Thái Bình Dương đang bị "bóp méo" bởi lợi ích kinh tế.
Ảnh hưởng không bền vững
Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế, dù Trung Quốc có mạnh về kinh tế, có nhiều tiền đến đâu thì vẫn chưa thế giành được tình cảm và sự tin tưởng của các nước. Ngược lại, nước Mỹ, gã khổng lồ đang hụt hơi vì khủng hoảng tài chính, lại được các quốc gia khác tin tưởng hơn nhiều, chí ít là các nước đồng minh.
Anh vẫn là đồng minh thân cận của Mỹ, là bộ đôi trong các chiến dịch quân sự và bảo đảm an ninh lớn trên thế giới. Pakistan, dù nhận được các khoản viện trợ to lớn từ Trung Quốc, trong đó có vũ khí, nhưng vẫn không thế tách rời Mỹ. Vũ khí Mỹ vẫn đóng vai trò chủ lực trong lực lượng quân đội Pakistan, và cuộc chiến chống khủng bố tại đây vẫn cần sự trợ giúp từ Washington.
Các nước châu Phi cũng đang càng ngày càng tỏ ra thận trọng hơn trước các bước đi của Trung Quốc tại khu vực. Cần công nhận một thực tế, nếu các nước nghèo hơn đứng giữa đề nghị thiết lập căn cứ quân sự của Mỹ và Trung Quốc, Mỹ sẽ ở "kèo trên".
Vậy câu hỏi dành cho các nước nhỏ là kinh tế sẽ quyết định an ninh hay ngược lại? Đây là một câu hỏi khó, nhất là với giới hoạch định chính sách đối ngoại.
Hiện tượng phù thịnh của các nước yếu đối với nước mạnh hơn là điều hoàn toàn dễ hiểu, với cơ hội nhận được nhiều lợi ích về mặt kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, phù thịnh về kinh tế chưa chắc dẫn tới sự phụ thuộc và đi theo về mặt an ninh và chính trị. Trường hợp của Pakistan hay một số nước châu Phi là ví dụ điển hình.
Cái cách mà người Trung Quốc gầy dựng ảnh hưởng kinh tế tại các nước thế giới thứ ba là hoàn toàn không bền vững, và năng lực quân sự của Trung Quốc cũng là không đủ để thiết lập ảnh hưởng quân sự toàn cầu và lâu dài như Mỹ.
Tâm lý phù Trung hiện tại chỉ là nhất thời, cho đến khi nào Trung Quốc còn giữ vững được tốc độ phát triển kinh tế hiện tại. Về an ninh và chính trị, Mỹ vẫn là cường quốc có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới.
Thuận Phương - Hàng Duy Linh