Campuchia chỉ trong vòng 3 - 4 năm đã nhanh chóng có chiến lược và xâm nhập những thị trường khó tính bậc nhất.
Các thị trường truyền thống đang "ấm" trở lại. Philippines đã ký hợp đồng mua 800.000 tấn cho năm 2014, Malaysia mua 200.000 tấn và khả năng sẽ hợp đồng mua tiếp từ nay đến cuối năm, Indonesia cũng đang rục rịch mua gạo Việt Nam. Tuy nhiên, TQ hiện vẫn là nước nhập khẩu gạo nhiều nhất 7 tháng qua, dù tháng 5 và 6 có giảm.
Nhìn chung, theo đánh giá của chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) Nguyễn Hùng Linh, nhiều tín hiệu thị trường đáng mừng xuất hiện. Các thị trường truyền thống của gạo Việt Nam ở châu Á đang hồi phục.
Giá gạo xuất khẩu của VN đang lên cao. Ảnh minh họa |
Cơ hội thị trường hiếm có nhưng ngắn hạn
Biến động chính trị ở Thái Lan đã tạo ra một khoảng trống lớn trên thị trường gạo quốc tế.
Chính quyền quân sự nước này đã thanh toán xong khoản nợ khổng lồ 3 tỷ USD cho 800.000 hộ nông dân nước này. Tiếp theo là thành lập hơn 100 đội liên ngành điều tra tình hình thực tế dự trữ gạo tại 1.800 kho khắp cả nước trước nhiều cáo buộc tham nhũng cùng với lệnh ngừng xuất khẩu gạo khiến cho gạo Thái Lan đột nhiên biến mất khỏi cuộc chơi trên thị trường quốc tế. "Đây là hiện tượng chưa từng có trong lịch sử xuất khẩu gạo thế giới", một chuyên gia Thái Lan đánh giá trên tờ Bangkok Post.
Mặt khác, gần 2 triệu lao động nhập cư bất hợp pháp ở Thái Lan chủ yếu làm trong các cơ sở xay xát, chế biến lương thực bị ảnh hưởng biến cố chính trị cũng tác động lớn đến ngành chế biến lương thực và xuất khẩu gạo Thái suốt 2 tháng qua.
Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan đưa ra nhận định: "Các yếu tố trên chắc chắn sẽ đẩy giá gạo Thái Lan xuất khẩu lên ít nhất 20 USD/tấn trong thời gian vào những tháng cuối năm. Cộng với hiện tượng El Nino ở Ấn Độ (quốc gia xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới) sẽ thành động lực và áp lực lớn cho các quốc gia có nhu cầu nhập khẩu phải tranh thủ tăng nhanh nhập thêm, thay vì giãn tiến độ chờ giá giảm như thường lệ".
Dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cho thấy, năm 2014 sẽ là năm thứ 4 sản xuất lương thực trên thế giới tiếp tục được mùa và dự trữ gạo sẽ tiếp tục tăng cao. Do vậy, khó khăn sẽ dồn về phía các quốc gia sản xuất gạo. Do đó, Thái Lan và Ấn Độ đã có tín hiệu giãn tiến độ xuất khẩu gạo nhằm thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu ở các thị trường của họ.
Bên cạnh đó, hiện tượng thời tiết El Nino vốn là "thảm họa" thường xuyên của Ấn Độ đang quay trở lại ở quốc gia này đã tác động trực tiếp tới xuất khẩu gạo của Ấn. Các thông tin từ Ấn Độ cho biết, lượng mưa đã giảm mạnh và diện tích trồng lúa cũng đang giảm theo. Nếu tình hình thời tiết cực xấu, chắc chắn sẽ ảnh hưởng mạnh hơn nữa đến thị trường gạo thế giới.
Ngoài ra, về phía cầu cũng xuất hiện một số biểu hiện không bình thường, như hiện tượng TQ và một số quốc gia khác như Philippines, Malaysia đột ngột tăng dự trữ quốc gia.
Tình hình trên tạo ra thời cơ thị trường khá tốt cho Việt Nam. Tuy nhiên, các DN xuất khẩu gạo nhấn mạnh: "Thuận lợi này chỉ mang tính ngắn hạn. Hơn nữa, thị trường TQ dù chiếm sản lượng lớn song vẫn là nguy cơ tiềm ẩn khó lường". Thực sự TQ tăng lượng nhập khẩu gạo từ đầu năm tới nay chủ yếu là để tăng dự trữ gạo quốc gia. Hiện TQ đang là quốc gia có lượng gạo dự trữ cao nhất thế giới. Theo một số liệu, lượng gạo nước này dự trữ đủ cho 1,4 tỷ dân của họ ăn trong 190 ngày, trong khi đó phần còn lại của thế giới chỉ dự trữ cho 71 ngày.
Giá tăng, lợi ích vẫn không vào nông dân
Theo logic thông thường, lúa gạo bán được giá thì nông dân là người trực tiếp sẽ được hưởng lợi. Song thực tế có như vậy?
Một DN xin giấu tên thẳng thắn thừa nhận: "Tính đến nay, các DN trong nước đã mua tạm trữ trên 70% kế hoạch đề ra. Khi giá xuất khẩu tăng cao, kéo theo giá lúa tăng thì thực sự nông dân đã bán gần hết. Chỉ những DN tạm trữ là hưởng lợi. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh thị trường xuất khẩu bế tắc kéo dài, thì đây (giá gạo xuất khẩu tăng - PV) vẫn là tín hiệu tốt".
Tại các tỉnh ĐBSCL, vựa lúa xuất khẩu chính của các nước, nhiều nông dân ngẩn ngơ tiếc rẻ vì đã bán hết lúa thu hoạch thời gian trước, nay giá thu mua tăng cao thì đã không còn lúa để bán. Thực ra, người trồng lúa không có sự lựa chọn nào khác, vì áp lực nợ vay và nhu cầu tiêu dùng gia đình đè nặng khiến thu hoạch xong phải bán ngay để thanh toán, trang trải. Trong khi đó, chi phí cho các loại phân bón và vật tư nông nghiệp, xăng dầu vẫn liên tục tăng.
Một điều hoàn toàn bất ngờ nữa là, do giá gạo xuất khẩu tăng, giá lúa tăng đã đẩy không ít DN chế biến và kinh doanh lúa gạo đến chỗ lỗ hoặc phá sản. Ở VN có đặc thù là các DN khi ký hợp đồng bán gạo đều không phải có hàng sẵn, mà ký xong mới lo đi thu mua về chế biến rồi giao khách hàng. Với cách làm này, nếu may mắn sẽ lời rất lớn, ví dụ lúc ký giá gạo cao, còn lúc giao hàng giá gạo xuống. Nhưng ngược lại thì cũng rất rủi ro.
Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tịch UBND tỉnh An Giang, chỉ ra: "Nông dân chẳng còn lúa để bán, DN chế biến và xuất khẩu cũng bị chết theo do họ đã ký hợp đồng từ trước với giá thấp. Nay giá tăng, đầu vào cao mà đầu ra trót ký thấp, chết là cái chắc!". Ông cho biết thêm, rất nhiều DN chế biến và xuất khẩu ở An Giang phải khóc ròng vì giá xuất khẩu tăng cao!
Vậy ai là người hưởng lợi từ giá xuất khẩu gạo tăng cao? Ông Nguyễn Minh Nhị phân tích: "Đừng nghĩ rằng, lợi ích này không bay lên trời thì rơi xuống đất! Không có đâu. Nó bay vào không trung! Kinh tế là kinh bang tế thế, phải rất linh hoạt, khôn ngoan, sát với thị trường. Người trồng lúa và nhà chế biến kinh doanh lúa gạo của Việt Nam rời rạc, cắt khúc, không gắn kết với nhau, không gắn với thị trường. Với kiểu quản lý của ta như 10 năm qua thì lúa tăng hay giảm cũng đều thiệt hại cho nông dân và DN".
Cho đến giờ phút này, lúa gạo Việt Nam vẫn chưa có thị trường ổn định. Thuận lợi về giá như năm nay vẫn mang tính "cơ hội" nhiều hơn là do ta chủ động tạo lập nên. Và do cách quản lý điều hành sản xuất nông nghiệp "phập phù", người trồng lúa và nông dân lẫn DN sản xuất, chế biến và kinh doanh của Việt Nam luôn trong trạng thái may rủi, thua nhiều hơn thắng. Ngay cả khi có "cơ hội" giá tốt từ thị trường mang lại thì luôn bị động nên chẳng có sự chuẩn bị, cuối cùng lợi ích chẳng hưởng được.
Gạo Battambang nổi tiếng của Campuchia. Ảnh: Xuân Khu/TTXVN |
VN loay hoay, Campuchia đã "âm thầm" tiến
1/4 thế kỷ qua, VN luôn nằm trong top 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu. Song giá gạo của chúng ta luôn lệ thuộc nặng nề vào những biến động thất thường của thị trường gạo thế giới.
Theo số liệu của Bộ Công thương, diễn tiến phập phù của thị trường gạo Việt Nam từ năm 1989 đến nay như sau:
- Giai đoạn 1989 - 1994: Giá gạo xuất khẩu bình quân 200 USD/tấn
- Giai đoạn 1995 - 1999: Giá xuất khẩu tăng lên 220 - 290 USD/tấn
- Giai đoạn 2000 - 2003: Giá tụt xuống dưới 200 USD/tấn
- Giai đoạn 2004 - 2008: Giá gạo vượt ngưỡng 200 USD/tấn, liên tục tăng lên và đạt kỷ lục 569 USD/tấn vào năm 2008 là năm xảy ra khủng hoảng lương thực thế giới. Và cũng vào năm này, khi có cơ hội xuất khẩu gạo giá cao rất tốt, thì VN lại bỗng dưng "tạm ngưng" xuất khẩu gạo.
- Giai đoạn 2009 - nay: Giá gạo tụt xuống 407 USD/tấn vào năm 2009. Sau đó tăng lên 514 USD/tấn vào 2010. Năm 2012 tụt xuống 470 USD/tấn.
Gạo Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với gạo Thái Lan và Ấn Độ, cùng với gạo Mỹ và Pakistan. Gạo Việt Nam đã từng có được 2 thị trường lớn là châu Á và châu Phi, nhưng từ năm 2000 đến nay, chúng ta luôn bị mất thị trường do không cạnh tranh nổi với gạo Thái Lan. Thị trường châu Phi đã rơi vào tay các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan. Tại châu Á, gạo Thái Lan cạnh tranh quyết liệt, có lúc giành thị trường truyền thống của Việt Nam. Đặc biệt, việc xuất khẩu gạo phụ thuộc nặng nề vào thị trường TQ là rất nguy hiểm.
Trong khi đó, như GS.TS Võ Tòng Xuân chỉ ra, bản thân các biện pháp trong nước lại "chỉ mang tính nhất thời, ngắn hạn và không thực tế nên không giúp ích gì cho nông dân và nhà chế biến - xuất khẩu, ngược lại đã gây khó khăn rất lớn cho họ". Và: "Cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính tự phát nên nhiều vấn đề vô lý nảy sinh. Ví dụ như kim ngạch xuất khẩu gạo không đủ mua nguyên vật liệu, giống lúa và máy móc thiết bị nông nghiệp..."
Trong khi Việt Nam đang loay hoay với bài toán "cơ cấu, tái cơ cấu" thì sản xuất và xuất khẩu gạo của Campuchia đã có bước tiến nhanh đáng kinh ngạc.
10 năm trước, người ta thường nghĩ Campuchia chỉ sản xuất được gạo "đủ ăn". Song tình hình đã rất khác, hiện gạo Campuchia đã có mặt trên 30 quốc gia trên thế giới.
Điều đáng nói là trong suốt 1/4 thế kỷ qua gạo Việt Nam chỉ "ổn định" với 10 thị trường chính, có lúc trồi sụt quanh con số này. Về thị phần thì gạo Việt Nam định vị ở những quốc gia thu nhập trung bình và thấp, chứ chưa "mon men" vào được những thị trường cao cấp như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc...
Vậy mà Campuchia chỉ trong vòng 3 - 4 năm đã nhanh chóng có chiến lược và xâm nhập những thị trường khó tính bậc nhất này. Không những vậy, cùng phẩm cấp gạo và thời điểm bán, thì gạo Campuchia luôn có giá bán cao hơn gạo Việt Nam từ 30 - 50 USD/tấn.
Những thực tế trên rõ ràng đang đặt ra cho chúng ta thách thức cần phải cải cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn cho nền SXNN của Việt Nam, thay vì những chính sách, biện pháp nửa vời, thiếu hệ thống.
Duy Chiến
Tham khảo: Bàn tròn Tái cơ cấu SXNN Việt Nam do Duy Chiến thực hiện:
Kỳ 1: Từ cường quốc đến... vỡ trận "Bế tắc lớn nhất hiện nay là thị trường tiêu thụ. Gần như cả nước làm nông nghiệp mà không biết khách hàng là ai, nhu cầu của họ thế nào." - TS. Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ. Kỳ 2: Chúng ta thiếu doanh nhân có dũng khí "Phần lớn DN Việt không được trang bị kiến thức và kỹ năng kinh doanh nông sản nên không biết tìm, mở thị trường; không có khả năng tổ chức nghiên cứu chế biến nông sản thô thành sản phẩm có thương hiệu. Chúng ta không có những doanh nhân có kỹ năng chuyên môn và dũng khí", GS Võ Tòng Xuân nói. Kỳ 3: 5 ông bộ quản một con sông Một con sông bị cắt ra cho 4 - 5 Bộ quản lý! Nước dẫn vào đồng thì do bộ nông nghiệp, nước nguồn thì do bộ tài nguyên, nước để chở tàu bè thì do bộ giao thông... Cứ cắt khúc như thế.
Kỳ 4: Ta đang giúp nhiều nước có cái ăn Chúng ta đã và đang giúp cho nhiều quốc gia thiếu lương thực có cái ăn. Nhưng đồng thời cũng làm phá giá nhiều mặt hàng nông sản làm thiệt hại cho chính chúng ta và các nước xuất khẩu nông sản khác. |