Tranh chấp giữa hai nước có thể quyết định tương lai của Đông Á. Trung Quốc theo đuổi vị thế cường quốc thế giới còn Nhật Bản đã thể hiện rõ ý định của mình là kiềm chế Trung Quốc.

Kì 1: Vẽ lại biên giới hàng hải, TQ châm ngòi xung đột

Kì 2: TQ đổi vai để thành "hổ giấy"

TQ sẽ chiếm Senkaku bằng vũ lực?

Cách Philippines vài trăm km về phía bắc, Trung Quốc đang tranh giành với Nhật một nhóm đảo nhỏ, cằn cỗi và cho đến gần đây vẫn ít người biết đến gọi là Senkaku/Điếu Ngư. Dù có vẻ như không có ý nghĩa về mặt lãnh thổ - không có người sinh sống – sự tranh giành này có phần rủi ro cao hơn nhiều so với những vụ đụng độ ở khu vực khác.

Tranh chấp giữa hai nước có thể quyết định tương lai của Đông Á. Trung Quốc theo đuổi vị thế cường quốc thế giới còn Nhật Bản đã thể hiện rõ ý định của mình là kiềm chế Trung Quốc.

Việc kiểm soát Senkaku (và có thể cả quần đảo Ryukyu, phía đông nam của quần đảo Senkaku) được Bắc Kinh coi là chìa khóa để tiếp cận trực tiếp, tự do ra khu vực đại dương bên ngoài và quan trọng hơn, là một bước ngoặt để tiếp quản Đài Loan, một mục tiêu cơ bản của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ.

Trung Quốc không tranh cãi chủ quyền của Nhật Bản trên quần đảo Senkaku, mà họ gọi là quần đảo Điếu Ngư, cho đến năm 1971, khi Mỹ chuyển giao quần đảo cho Tokyo quản lý. Chỉ hai năm trước khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với quần đảo, LHQ công bố kết quả một cuộc khảo sát địa chất khu vực, kết luận rằng “thềm lục địa giữa Đài Loan và Nhật Bản có thể là một trong những mỏ dầu lớn nhất trên thế giới”.

Năm 1978, sau vài năm tranh cãi, ông Đặng Tiểu Bình nói với phía Nhật rằng hai nước nên hoãn lại vấn đề quyền sở hữu các hòn đảo để cho “một thế hệ trong tương lai”. Căng thẳng lại nổi lên mạnh trong năm 2010, 13 năm sau khi Đặng Tiểu Bình qua đời, khi một tàu đánh cá Trung Quốc đâm vào một tàu Cảnh sát biển Nhật Bản ở vùng biển gần đó.

Nhật Bản có mối quan ngại rằng sớm hay muộn Trung Quốc sẽ cố gắng chiếm quần đảo Senkaku bằng vũ lực. Bên cạnh các lợi ích khác, việc kiểm soát các hòn đảo sẽ cung cấp cho Trung Quốc một nền tảng để tấn công tàu Mỹ đặt ở xa các căn cứ ở Okinawa, ngăn ngừa tiếp cận Trung Quốc hay can thiệp vào một cuộc xung đột chiếm quyền kiểm soát Đài Loan.

{keywords}
Ảnh: The Atlantic

Đầu năm nay, phát biểu tại một hội nghị ở San Diego, GĐ hoạt động thông tin tình báo của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ James Fanell, cho rằng, Bắc Kinh đã chuẩn bị lực lượng của mình “để có thể tiến hành một cuộc chiến nhanh gọn tiêu diệt lực lượng Nhật Bản tại biển Hoa Đông, sau đó chiếm quần đảo Senkaku hoặc thậm chí quần đảo Ryukyus ở phía nam”.

Nếu chiến tranh nổ ra vào lúc này, nhiều nhà phân tích tin rằng Nhật Bản sẽ thắng thế. Ngoài hệ thống vũ khí tối tân do Mỹ cung cấp, lực lượng Nhật Bản còn được hưởng lợi từ nhiều năm liên kết đào tạo cùng với các đối tác Mỹ, và có lẽ sẵn sàng chiến đấu tốt hơn so với hải quân Trung Quốc.

Vì lý do đó, so với nhiều chuyên gia khác, các nhà phân tích Nhật Bản nhận thấy ít có khả năng Trung Quốc sẽ quan tâm đến một cuộc đụng độ trực diện lớn trong thời gian sớm. Tuy nhiên, nhiều đánh giá khác nhìn chung tin rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục kích động dồn Nhật Bản vào thế khó và có thể bao gồm cả những cuộc đụng độ nhỏ với các máy bay quân sự Nhật như quấy rối, đâm tàu cảnh sát biển. Mục tiêu cuối cùng là đạt được thắng lợi trong một cuộc chơi dài hơi hơn.

Nếu Tokyo bị coi là kẻ gây chiến, hoặc thậm chí chỉ đơn thuần là thiếu thận trọng, các nhà phân tích Nhật Bản lo sợ phản ứng dữ dội ở cả trong và ngoài nước. Công luận Nhật Bản có thể sẽ quay lưng lại với Abe, hoặc một chính phủ trong tương lai.

Thậm chí nguy hiểm nhiều hơn, trong con mắt của các nhà phân tích Nhật Bản, là phản ứng của công chúng Mỹ. Nếu Mỹ dao động trong cam kết của mình đối với Tokyo, hoặc lẩn tránh hoàn toàn, Bắc Kinh khi đó đã đi được cả một chặng đường dài hướng tới mục tiêu lâu dài lớn nhất: làm suy yếu liên minh giữa Mỹ và Nhật Bản. Washington sẽ mất uy tín trong khu vực, và lần lượt các quốc gia, thậm chí có thể bao gồm cả Nhật Bản, sẽ bắt đầu thực hiện các tính toán mới nhằm thích nghi với Trung Quốc.

Ràng buộc người khổng lồ

Sự tự cao của Trung Quốc khiến tất cả các quốc gia xung quanh đều lo ngại. Nhiều nước đã bắt đầu thiết lập quan hệ đối tác có cùng mối quan tâm: kiềm chế Bắc Kinh.

Đây cũng có thể là mục tiêu nổi bật nhất của trục Mỹ: làm dày mạng lưới các nước láng giềng lo ngại Trung Quốc, những bên có lợi ích chung trong việc ngăn chặn Trung Quốc sử dụng vũ lực.

Thời điểm này, trừ Nhật Bản, không nước nào có khả năng chiếm ưu thế trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, và một số chỉ là những nhân vật tí hon. Tuy nhiên, trên sân khấu, ngay cả khi không tham gia liên minh tuyệt đối, họ vẫn có thể ràng buộc người khổng lồ vào các quy tắc quốc tế được hai bên chấp nhận.

Trong mọi trường hợp, các nước láng giềng của Trung Quốc không hẳn bị động chờ đợi Mỹ chỉ đường. Nhật Bản đóng góp nhiệt tình hỗ trợ củng cố tiềm lực hải quân của một số nước Đông Nam Á. Ngay cả Hàn Quốc, vốn là một trong những các nước láng giềng quan tâm nhất đến Trung Quốc, cũng đang bán trang thiết cho Philippines.

Cuối cùng, hoạt động cân bằng trong khu vực như thế này có thể triển vọng tốt nhất để tránh một cuộc đối đầu trực tiếp giữa Trung Quốc và Mỹ ở tây Thái Bình Dương.

Trung Quốc càng nhận thấy một phản ứng phối hợp của nhiều nước đối với sự tăng cường quân sự và tấn công hải quân, càng có khả năng Bắc Kinh sẽ chuyển hướng sang ngoại giao, và ngừng tìm kiếm ưu thế áp đảo trong khu vực. Và, tất nhiên, đó không phải là khả năng duy nhất.

Nguồn gốc sự hung hăng của Trung Quốc

Trong suốt nhiều thập kỷ, bắt đầu với Đặng Tiểu Bình, khẩu hiệu địa chiến lược của Trung Quốc là ẩn mình chờ thời. Tôn chỉ của Đặng Tiểu Bình đã không bao giờ mất đi giá trị, nhưng hành động của Trung Quốc kể từ giữa năm 2013 cho thấy rõ ràng rằng cách tiếp cận của ông này đã bị gạt sang một bên. Giới diều hâu trong quân đội Trung Quốc không ngớt kêu gọi phải quyết đoán hơn nữa, thậm chí đến mức hiếu chiến.

Một ví dụ gần đây là, Liu Yazhou, ủy viên chính trị tại Đại học Quốc phòng Quân đội Giải phóng Nhân dân, nghe giống như binh pháp thời cổ đại Trung Quốc khi ông nói trong một cuộc phỏng vấn tạp chí: “Không có chiến thắng quân sự thì chẳng nghĩa lý gì. Những khu vực biên giới mà quân đội của chúng ta đã giành được chiến thắng thì hòa bình và ổn định hơn, nhưng những nơi chúng ta đã quá nhút nhát thì tranh chấp nhiều hơn”.

Tiếng nói của Liu Yazhou có thể bị coi là không chính thức, nhưng bản thân ông Tập Cận Bình đã công khai cổ vũ phát triển vũ khí và khuyến khích trang bị quân sự. Trong chuyến đi đầu tiên của mình sau khi nhậm chức ra ngoài thủ đô Bắc Kinh vào tháng 11/2012, ông này đã tới thăm quân sĩ tại Quân khu Quảng Châu, và đã phát biểu, “tất chiến, tất thắng là linh hồn của một đội quân mạnh”.

Nhiều nhà phân tích cho rằng thay đổi gần đây của nước này là do họ có sự sự tự tin lớn hơn trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khiến hầu hết các nền kinh tế phương Tây kiệt quệ trong khi Trung Quốc chỉ bị ảnh hưởng nhẹ. Các sự kiện tiếp theo, như sự kiện vũ khí hóa học của Syria và việc Washington không thể ngăn chặn Nga sáp nhập Crimea, có thể cũng góp phần khiến Bắc Kinh cảm nhận rằng tiềm năng của Mỹ ở nước ngoài đang suy giảm.

Đình Ngân (Theo Atlantic)

Tác giả bài viết là Howard French. Bài viết gần đây nhất của ông về cuộc di dân của Trung Quốc nhằm xây dựng một đế chế mới của Châu Phi. Hiện ông đang viết cuốn sách về địa chính trị của EastAsia.