Trong tư duy chính trị của người Mỹ, nếu một chính quyền tại vị quá lâu, kể cả khi làm tốt, cũng trở thành “không tốt” vì nó sẽ “giết chết” tính sáng tạo và các ý tưởng mới. Nếu như một chính quyền cụ thể nào đó mà làm càng “dở” thì tâm lý muốn thay đổi nhanh lại càng mạnh mẽ.

LTS: Trong phần tiếp theo của loạt bài về bầu cử giữa kỳ, tác giả Hoàng Anh Tuấn lý giải nguyên nhân dẫn đến thất bại của Đảng Dân chủ và tình thế của Tổng thống Mỹ Obama.

Khi quyền lực đã lên đến “đỉnh”

Có lẽ khi chứng kiến cảnh thắng cử vang dội của ông Obama trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2008, ít ai hình dung được “tình cảnh” của ông Obama và Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2014, tức chỉ 6 năm sau đó.

Cách đây 6 năm, sự xuất hiện của Tổng thống Obama là “đặc ân” và có thể giúp ứng cử viên Dân chủ ở thế bấp bênh đảo ngược tình thế, còn nay thì ngược lại. Câu nói lan truyền của họ là” Everyone, but Obama” (ai cũng được, nhưng Obama thì không). Điều ông Obama chỉ có thể làm để giúp Đảng Dân chủ lúc này là vận động “qua loa” (tức lên đài phát thanh) và xuất hiện trên TV!

{keywords}

Đảng Dân chủ sau thất bại trong cuộc bầu cử Mỹ 2014. Ảnh: AP

Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2008, Barack Obama (Thượng nghị sĩ Dân chủ bang Illinois) đã thắng John McCain (Thượng nghị sĩ Cộng hòa bang Arizona) một cách tuyệt đối cả về phổ thống đầu phiếu (52,9% so với 45,7%) lẫn phiếu Đại cử tri (365 phiếu so với 173 phiếu). Buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Obama tại Washington có tới 1,8 triệu người từ khắp nước Mỹ đổ về và là lễ nhậm chức có đông người tham dự nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Sự kiện này được coi là cơ hội chỉ một lần trong đời khi nước Mỹ lần đầu tiên có một Tổng thống da màu gốc Phi. Trước đó, trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006, Đảng Dân chủ đã làm cuộc soán ngôi ngoạn mục khi giành quyền kiểm soát cả Hạ viện và Thượng viện từ tay Đảng Cộng hòa và tiếp tục nắm đa số tại cả 2 viện của Quốc hội khi ông Obama thắng cử Tổng thống năm 2008. Như vậy, trong năm 2008 Đảng Dân chủ kiểm soát cả 3 thiết chế quan trọng của nước Mỹ là Chính quyền, Hạ viện và Thượng viện.

Tuy nhiên, khi quyền lực đã lên đến “đỉnh” thì sẽ không thể duy trì mãi và việc xuống dốc trở nên tất yếu. Năm 2012, Tổng thống Obama vẫn tiếp tục thắng và nắm quyền Tổng thống thêm nhiệm kỳ II trước ứng cử viên Cộng hòa, nguyên Thống đốc bang Massachusetts Mitch Romney.

Chiến thắng đó có phần kém “oanh liệt” hơn cả về phổ thông đầu phiếu (51,1% so với 47,2%) lẫn phiếu Đại cử tri (332 phiếu so với 206 phiếu). Cũng trong năm 2012, Đảng Dân chủ đã “để mất” quyền kiểm soát tại Hạ viện vào tay Đảng Cộng hòa.

Đáng chú ý là bất kỳ chính sách nào của chính quyền Obama đưa ra đều bị các đối thủ Cộng hòa công kích, trở thành chủ đề chế giễu trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các chương trình giải trí ăn khách cuối tuần như “Saturday Night Live”, “Late Show with David Letterman”, “The Tonight Show”….

Không chỉ bị Đảng Cộng hòa công kích, mà các lãnh tụ cấp cao của Đảng Dân chủ trong Quốc hội Mỹ cũng “quay lưng” lại với Tổng thống. Các vấn đề tranh cử trên phạm vi quốc gia thì rất nhiều, nhưng tựu trung là một số vấn đề sau: các khó khăn kinh tế của nước Mỹ, tình trạng nợ công cao, chính sách y tế Obamacare, cách thức đối phó với Ebola, phong trào Nhà nước Hồi giáo (IS).

6 năm cầm quyền dã đủ cho một chu kì chính trị

Tại sao ông Obama và Đảng Dân chủ lại rơi vào “tình cảnh” này và chỉ trong một thời gian ngắn như vậy? Điều này càng trở nên có phần “khó hiểu” đối với những người nhìn nước Mỹ từ bên ngoài khi thấy người Mỹ “quá khó tính”.

Tuy chưa được như kỳ vọng của người Mỹ, nhưng kinh tế Mỹ có sự phục hồi và nhiều tín hiệu tích cực nhất so với nhiều nền kinh tế lớn khác (EU, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ và kể cả Trung Quốc) với tốc độ tăng trưởng trong Quý III, 2014 là 3,5% và dự kiến cả năm đạt 2,3%, còn tỷ lệ thất nghiệp thì ở mức thấp nhất trong 6 năm kể từ năm 2008 là 5,9%.

{keywords}

Tòa nhà Quốc hội Mỹ. Ảnh: Reuters

Còn trên mặt trận đối ngoại, nước Mỹ đã không quay lại chính sách “biệt lập”, can dự và đóng vai trò quan trọng, nếu không nói là quyết định tại nhiều “đấu trường” khu vực và thế giới như Trung Đông, châu Âu và châu Á.

Qua đó có thể phân tích một số nguyên nhân.

Thứ nhất, đối với phần đông cử tri Mỹ, 6 năm cầm quyền là “đủ” cho một “chu kỳ chính trị”. Và cùng với sự phát triển của khoa học-công nghệ, cách mạng thông tin, toàn cầu hóa thì trong vòng vài chục năm quan “chu kỳ” này càng ngắn lại.

Trong tư duy chính trị của người Mỹ, nếu một chính quyền tại vị quá lâu, kể cả khi làm tốt, cũng trở thành “không tốt” vì nó sẽ “giết chết” tính sáng tạo và các ý tưởng mới. Nếu như một chính quyền cụ thể nào đó mà làm càng “dở” thì tâm lý muốn thay đổi nhanh lại càng mạnh mẽ.

Ở Mỹ, quy luật tâm lý này không loại trừ bất cứ ai, bất cứ chính quyền nào vì nó không thỏa mãn tâm lý “cả thèm, chóng chán” về chính trị của người Mỹ. Hiện nay chính quyền Obama đang ở vào chu kỳ tâm lý này của người Mỹ.

Thứ hai, kinh tế Mỹ tuy có nhiều mặt tốt, nhiều dấu hiệu tích cực, nhưng cũng có các “vấn đề” đằng sau các số liệu “màu hồng”.

Đó là, tỷ lệ thất nghiệp tuy giảm (hiện là 5,9%), nhưng công ăn việc làm được tạo ra lại ở vào khu vực sử dụng nhiều lao động, lương thấp, chứ không phải được tạo ra trong các ngành kinh tế của tương lai như công nghệ cao, môi trường, sinh học… Điều này chỉ giúp người Mỹ đủ sống chứ không giúp họ giàu và nước Mỹ thịnh vượng được.

Tuy kinh tế tăng trưởng, nhưng nhìn chung mức tăng thu nhập thực tế của người Mỹ dưới chính quyền Obama lại giảm đi. Báo cáo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ gần đây cho rằng thu nhập thực tế của người Mỹ (sau khi trừ lạm phát) trong 6 năm cầm quyền của Tổng thống Obama lại có mức giảm kỷ lục là 12%, và đây mới là thước thực phản ánh thái độ của cử tri Mỹ đối với chính quyền.

Nợ công của nước Mỹ dưới thời chính quyền Obama lại “tăng trưởng ấn tượng” nhất cả về tốc độ “tăng trưởng” lẫn con số tuyệt đối so với bất kỳ chính quyền nào của Mỹ kể sau Thế chiến II đến nay và hiện đã ở mức xấp xỉ GDP của nước Mỹ (gần 17.000 tỷ USD). Điều này không chỉ đe dọa sự an toàn tài chính quốc gia của nước Mỹ, mà còn cản trở đến tương lai kinh tế Mỹ.

Chính sách y tế Obamacare với thiện ý tốt là giúp người nghèo Mỹ có được bảo hiểm y tế để trang trải các chi phí y tế ngày càng trở nên đắt đỏ. Điều này tốt đối với các cá nhân và gia đình người Mỹ có thu nhập thấp. Tuy nhiên, trên bình diện quốc gia thì nó lại nảy sinh nhiều vấn đề.

Trước hết, việc “bao” bảo hiêm y tế (healthcare coverage) trên diện rộng khiến số tiến mà ngân sách liên bang và bang dành để chi trả bảo hiểm y tế rất lớn, và làm mất cân bằng ngân sách. Hiện số tiền mà người Mỹ chi trả bảo hiểm và tiền thuốc tăng trung bình khoảng 3 lần trong 6 năm qua, khiến ngay cả người trung lưu, có thu nhập cũng phải tăng thêm tiền đóng bảo hiểm (premium coverage) và kèm theo đó cũng là tăng nỗi bất bình.

Điều đó không chỉ đe dọa tính an toàn của hệ thống bảo hiểm y tế Mỹ, chế độ phúc lợi xã hội, mà còn làm cho chất lượng và dịch vụ y tế xuống thấp, và suy cho cùng thì cả người được hưởng “miễn phí” lẫn cả quốc gia đều bị “thiệt thòi”.

Thứ ba, sự kiện bệnh nhận Ebola đầu tiên của nước Mỹ trong đợt dịch bùng phát hiện nay là Thomas Eric Duncan bị nhiễm bệnh nhưng lại không được chẩn đoán và chữa trị đúng cách, và rồi để lây nhiễm sang cô y tá gốc Việt Nina Pham (vừa khỏi bệnh và được Tổng thống Obama đón tiếp tại Nhà trắng như một “anh hùng”) cho thấy những lỗ hổng trầm trọng của ngành y tế Mỹ.

Các phát biểu đầy mâu thuẫn của những người có trách nhiệm trong ngành y tế Mỹ, rồi nhận xét của các chuyên gia, thậm chí cả các chính tri gia cũng lao vào cuộc… khiến người Mỹ rối bời, không biết đâu mà lần.

Điều quan trọng là qua đó người Mỹ mới thấy được các lỗ hổng trong ngành y tế, sự chưa sẵn sàng của nước Mỹ trong việc chống lại các “đại dịch” của thế kỷ XXI. Trong điều kiện bình thường, đây là vấn đề mà các chuyên gia y tế Mỹ và hệ thống các cơ quan công quyền của Mỹ có thể phối hợp và có thể xử lý tốt.

Tuy nhiên, trong năm bầu cử thì câu chuyện lại rẽ sang hướng khác, tất các các sai lầm đều được mổ xẻ kỹ lưỡng, để rổi tất cả mọi chuyện đều “hướng đến” khả năng lãnh đạo và bao quát vấn đề của Tổng thống và chính quyền Obama!

Thứ tư, nếu người Mỹ đã không yên tâm trên mặt trận đối nội, thì trên mặt trận đối ngoại nơi “chuyên môn” của lãnh đạo Mỹ ít với tới lại càng làm cho họ thêm lo ngại.

Chỉ mới cách đây chưa đầy 3 tháng, Tổng thống Obama lên trả lời trên truyền hình nói nước Mỹ và chính quyền của ông chưa có chiến lược đối phó với IS, thì chỉ sau đó 3 tuần, nước Mỹ đã “vội vã” lập một mặt trận quốc tế rộng rãi để chống lại một trong những phong trào khủng bổ Hồi giáo cực đoan hùng mạnh nhất cả về nguồn lực tài chính, lẫn quy mô, phương cách hoạt động.

Không chỉ có IS, nước Mỹ cũng đang “căng mình” đối phó với một loạt các thách thức an ninh, đối ngoại tại nhiều khu vực khác nhau nữa.

Nêu các vấn đề trên nghe thì thấy có vẻ nghiêm trọng. Nhưng thực tế cho thấy, là một cường quốc toàn cầu và sống trong một thế giới ngày càng trở nên hỗn mang và phức tạp, các vấn đề mà nước Mỹ phải đối phó dưới bất kỳ thời nào, bất kỳ chính quyền nào cũng chưa bao giờ là “nhẹ nhàng” cả.

Tuy nhiên, trong năm bầu cử, nó giúp cho cử tri Mỹ, cho người Mỹ thấy được thấu đáo hơn các vấn đề họ đang gặp phải, thấy được rằng bên cạnh các giải pháp mà chính quyền Mỹ đang làm để “sửa chữa” lại nước Mỹ thì vẫn còn có các giải pháp khác, các lựa chọn khác tốt hơn.

  • Hoàng Anh Tuấn

TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.

------------------

Bài viết được đăng lại từ website nghiencuuquocte