Giai đoạn này, Reagan đã thành công trong việc tái lập thế “cân bằng tên lửa” với Liên Xô. Có thể nói đây là đỉnh điểm của cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang.  

>> Xem lại Kỳ 1: Khi Mỹ- Liên Xô đều nặng nề vì chạy đua vũ trang

Đỉnh điểm chiến tranh lạnh 

Thế giới đã tưởng càng ngày càng hòa dịu hơn, nhưng từ khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, thì tình hình lại theo chiều hướng ngược lại. Liên Xô tiếp tục duy trì đến 60% lực lượng quân đội tại lãnh thổ các nước Đông Âu trong Khối Warsaw; quan hệ Xô – Trung xấu đi nhanh chóng.  

Trong thời kỳ của tổng thống Carter, giới chức Hoa Kỳ đã rất ngập ngừng trước việc trang bị vũ khí mới và lo ngại trước những sáng kiến có tính chất mạo hiểm.  

Trong khi đó thì chính Liên Xô lại tăng cường ngân sách quốc phòng – lên đến 15% tổng thu nhập quốc dân (GDP.) Giai đoạn này Liên Xô hoàn thiện kỹ thuật và tăng cường độ chính xác của các tên lửa. Giai đoạn 1973 - 1983, theo tính toán, Liên Xô đã sản xuất được 2.000 ICBM (tên lửa đạn đạo xuyên lục địa), 54.000 xe tăng và xe bọc thép, 6.000 máy bay tác chiến chiến thuật, 85 tàu chiến nổi và 64 tàu ngầm tấn công. Các con số tương đương của Hoa Kỳ là 350 ICBM, 11.000 xe tăng và xe bọc thép, 3.000 máy bay tác chiến chiến thuật, 72 tàu chiến nổi và 27 tàu ngầm tấn công. 

Không chỉ thế, Hoa Kỳ còn quan sát thấy Liên Xô đã triển khai các tên lửa tầm trung bình, lúc đầu chỉ có một đầu đạn, sau đó là MIRV, tên lửa có khả năng mang nhiều đầu đạn. Đó là các tên lửa SS-4, SS-5 và nhất là SS-20, rõ ràng đang hướng vào Tây Âu ngoài tầm kiểm soát của các Hiệp ước SALT 1 và 2.  

Tháng 6/1979 khi Carter muốn ký SALT-2 thì Liên Xô đã triển khai được 90 tên lửa SS-20 ở Châu Âu. Tháng 12/1979 khi Liên Xô đưa quân vào Afganistan, Carter chỉ phản ứng một cách yếu ớt: cấm vận tạm thời việc cung cấp lúa mì, tẩy chay Thế vận hội Moscow 1980 (Để trả đũa việc này, Liên Xô cũng tẩy chay Thế vận hội Los Angeles 1984). 

Chính sách của Ronald Reagan thì lại cứng rắn hơn hẳn – ông ta quyết định sẽ thương lượng với Liên Xô nhưng nếu không thành công thì sẽ triển khai các tên lửa Pershing trên lãnh thổ Tây Âu, hướng về khối Varsaw. Ông đề nghị “phương án số không” nghĩa là nếu Liên Xô rút SS-20 (năm 1983, Liên Xô đã triển khai được 405 tên lửa SS-20) thì Hoa Kỳ sẽ không triển khai Pershing.  

Tuy nhiên tên lửa SS-20 nằm ngoài các loại “tên lửa Châu Âu” theo xác định của các hiệp ước đã ký, do đó Liên Xô kiên quyết không “chịu” cái “phương án số không” mà chỉ đồng ý phương án giảm dần số lượng.  

Đây là thời gian mà chính trường Châu Âu cũng có thay đổi quan trọng, đó là việc ở CHLB Đức thủ tướng Helmut Kohl lên nắm quyền năm 1980, đã đồng ý cho việc Hoa Kỳ triển khai tên lửa trên lãnh thổ Tây Đức (Quốc hội Tây Đức đã thông qua vào tháng 9/1983).  

Liên Xô đã rất thành công trong việc tuyên truyền phát động một phong trào đấu tranh chống triển khai tên lửa tầm trung trong số những người theo chủ nghĩa hòa bình, mạnh nhất là các cuộc biểu tình ở Tây Đức và một số cuộc lẻ tẻ ở Pháp. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn triển khai tên lửa Pershing ở Tây Đức (11/1983) và sau đó là ở Bỉ và Hà Lan (1984 và 1985.) Sau Pershing là tên lửa Cruise (loại tên lửa khó chống vì có độ cao thấp) cũng được Mỹ triển khai mà Liên Xô đã không có được hành động hữu hiệu nào để ngăn chặn.  

Reagan đã thành công trong việc tái lập thế “cân bằng tên lửa” với Liên Xô. Có thể nói đây là đỉnh điểm của cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang. Trong cuộc “khủng hoảng tên lửa Pershing,” rõ ràng thua thiệt thuộc về Liên Xô khi mà Hoa Kỳ thành công trong việc đưa tên lửa tầm trung tới “sát nách” các nước Khối Varsaw và đe dọa cả “trái tim” của Khối là Moscow. 

{keywords}

Trang Army Technology nhận định R-36M của Nga đứng top 10 tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) với tầm bắn xa nhất thế giới. Ảnh: Ussr.tistory.

Cuộc “Chiến tranh trên các vì sao” 

Ngày 23/3/1983, Ronald Reagan đọc diễn văn đề nghị triển khai một chương trình “nhằm thi hành các biện pháp phòng thủ để ngăn chặn mối đe dọa khủng khiếp mà các tên lửa của Liên Xô có thể gây ra với chúng ta.” Và thế là “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI – Strategic Defense Initiative) ra đời, với ngân sách 26 tỷ đô-la Mỹ trong 5 năm. 

Nếu “gồng lên” để đạt được cân bằng với Hoa Kỳ, Liên Xô sẽ phải chi một khoản lớn trong tổng sản phẩm quốc dân cho ngân sách quốc phòng. Ngày 20/5/1984 Yuri Chernenko đề nghị một cuộc hội đàm với Hoa Kỳ về kiểm soát vũ khí, đối tượng mở rộng hơn cả các Hiệp ước SALT 1 và 2. Các cuộc gặp gỡ giữa hai ngoại trưởng Schultz – Gromyko được tiến hành vào 1/1985 và 4/1985, đề nghị của Liên Xô luôn là “Mỹ dừng chương trình SDI” nhưng không nhận được sự đồng ý. Một lần nữa, Liên Xô lại thất bại như trong việc ngăn chặn Pershing triển khai ở Tây Âu. 

Thời kỳ M.X.Gorbachev cầm quyền tại Liên Xô là thời kỳ có những thay đổi mang tính chiến lược. Một mặt, những hậu quả của mười mấy năm từ 1973 Liên Xô tăng cường sức mạnh quân sự đã bắt đầu bộc lộ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân Liên Xô. Hàng hóa thiếu hụt, sản xuất bắt đầu đình đốn và càng sản xuất thì càng lỗ, mức sống trung bình của người dân giảm sút, sức cạnh tranh gần như không có.  

Cũng trong giai đoạn này, có hai biến cố được đánh giá là những “cú đánh quyết định” đến sinh mạng đất nước Xô-viết: tai nạn hạt nhân ở nhà máy điện Chernobyl và cuộc động đất ở Armeni năm 1988, cho thấy sự yếu kém của Liên Xô về công nghệ và khả năng ứng phó trước sự cố.  

Về khía cạnh “chạy đua vũ trang,” lúc này ở Tây Âu, Hoa Kỳ đã triển khai các tên lửa “Pershing 2” hoàn toàn có thể tấn công các mục tiêu trên đất Liên Xô. Chính vì vậy mà Gorbachev đã đề nghị với Hoa Kỳ các phương án không chỉ giảm, mà còn là tiêu hủy một phần các vũ khí đó. 

Trong các ngày 2 và 3/12/1989, tại Malta đã diễn ra cuộc gặp gỡ thượng đỉnh George Bush và M.X.Gorbachev, có thể nói đây là cuộc gặp gỡ “có tính lịch sử vì đã chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh.” Tuy nhiên, những vấn đề “thống nhất hai nước Đức,” “giải thể hai khối NATO và Varsaw” đã bị gác lại. 

Phúc Lai (tổng hợp)