Sau khi có thông tin về việc Trường đại học (ÐH) Sư phạm Hà Nội lập Hội đồng thẩm định luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, quyết định thu hồi bằng, hủy luận văn thạc sĩ của Ðỗ Thị Thoan, một số người lại tiếp tục lên tiếng bênh vực tác giả luận văn và bác bỏ kết luận của Hội đồng thẩm định. Tuy nhiên, họ không đưa ra được bất kỳ luận chứng nào về mặt khoa học, mà chỉ bác bỏ bằng cảm tính hoặc "chính trị hóa" vấn đề.
Sai lầm của luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm "Mở miệng" từ góc nhìn Văn hóa của Ðỗ Thị Thoan (ÐTT) bắt đầu từ đối tượng nghiên cứu của nó là nhóm "Mở miệng", từ quan niệm của tác giả về nhóm người nhân danh tự do sáng tác, tự do ngôn luận làm ra một số sản phẩm "phản văn hóa" và nhằm vào các mục đích khác (như Bùi Chát thừa nhận là không kể hết). Sản phẩm của "Mở miệng" gồm các văn bản xuyên tạc từ ca dao đến danh ngôn, sáng tác của các danh nhân được dân tộc Việt Nam tôn kính, và những văn bản với ngôn từ thô tục, nhơ bẩn, dơ dáy, có tính chất "bôi đen" xã hội...
Bản luận văn gây tranh cãi |
Ðiều đó quyết không phải là cách tân hay sáng tạo nghệ thuật như ÐTT ca tụng, không tác động tới đời sống văn học, và ngay cả những người ủng hộ "Mở miệng" cũng nhận thấy các sáng tác (nếu có thể gọi là sáng tác) của nhóm này không có giá trị về phương diện thẩm mỹ. Vì phản nghệ thuật cho nên chỉ sau có mấy năm, số thành viên của "Mở miệng" không tăng lên mà lại giảm xuống, rồi tất cả mất hút trên chính internet - môi trường tồn tại của nó. Vậy tác giả luận văn và người hướng dẫn "khai quật một xác chết" để làm gì?
Dù sản phẩm của "Mở miệng" không thể là đối tượng nghiên cứu của khoa học Ngữ văn, nhưng để cấp cho nó một "căn cước", ÐTT vẫn vơ váo một số sự kiện, ý kiến rồi gắn kết với nhau để dựng lên lịch sử vấn đề, rồi xác định nghiên cứu "Mở miệng" như là một tất yếu khách quan! Coi "Mở miệng" là hiện tượng "bên lề" (!), tác giả gạt bỏ mọi ý kiến phê phán, mà vinh danh bằng cách so sánh với sản phẩm phản nghệ thuật nổi loạn ở phương Tây, như bức tranh Ðái vào chúa của Serrano. Dẫu sao Serrano còn có thể biện bạch thiếu thuyết phục rằng làm như vậy không phải với thái độ bất kính mà do phẫn nộ với nạn buôn thánh, bán chúa trong xã hội hiện đại.
Còn với "Mở miệng", không gì có thể biện hộ cho ÐTT khi coi đó là sản phẩm kêu gọi "tự do ngôn luận, tự do sáng tác, tự do xuất bản". Ðấy là ngụy biện. Không chỉ tại Việt Nam, mọi xã hội lành mạnh đều không chấp nhận loại sản phẩm nhân danh thơ ca mà bản chất là phá hoại văn hóa. Ðể ca ngợi, ÐTT nhận định "Mở miệng" đòi quyền tự do cho nghệ thuật, song chị lại không đánh giá từ góc độ thẩm mỹ (mà chị coi là "cũ, lỗi thời"), tức là trốn tránh không phân định giữa đẹp và xấu, giữa hay và dở...
Thao tác này là đánh tráo, mượn "Mở miệng" để đưa ra các ý kiến sai trái, như: "Miền Bắc thường được cho là có quyền lực hơn, sống "gần" lãnh đạo, độc tài, cộng sản. Miền Nam được coi là không gian tự do hơn, với đô thị hiện đại sớm phát triển và sớm tiếp xúc với văn chương phương Tây và có khả năng đẩy cao những xu hướng hiện đại nếu Việt Nam Cộng hòa thắng lợi"!
Gần đây trên blog cá nhân, đề cập tới luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm "Mở miệng" từ góc nhìn Văn hóa ÐTT viết: "sự sai đúng của luận văn, khoa học hay không khoa học là tùy từng góc nhìn (mà có chuyện sai, đúng sao?)". Thật kinh ngạc khi một người làm khoa học lại đặt ra câu hỏi: trong khoa học "có chuyện sai, đúng sao?".
Dù sai là khả năng có thể xảy ra trong nghiên cứu khoa học, thì việc xác định đúng - sai vẫn là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu giúp khoa học phát triển. Khoa học không phải là "chợ trời", muốn nghiên cứu gì thì nghiên cứu, không cần biết đúng, sai. Vả lại, nếu quan niệm "sai đúng của luận văn, khoa học hay không khoa học là tùy từng góc nhìn" có ý nghĩa, nhẽ ra tiếp cận "Mở miệng" từ góc nhìn văn hóa, luận văn sẽ phải chỉ ra xu hướng "phản văn hóa" của "Mở miệng", chứ sao lại ca ngợi, tán dương những quan niệm, những câu chữ nhơ nhớp như thế! Làm khoa học nhưng không biết hoặc cố tình không biết thế nào là khoa học, nên Chương 2, Chương 3 của luận văn được viết như bút pháp của người ngộ chữ và mê sảng lý thuyết để thỏa mãn cái "mỹ học kẻ khác" được sử dụng để vinh danh "Mở miệng"!
Càng viết, càng thấy có sự nhập nhằng giữa lý thuyết với đối tượng nghiên cứu, từ đó "hóa kiếp" và tưởng tượng ra những "phẩm chất từ trên trời rơi xuống" để gán cho "Mở miệng", qua đó cấp cho "Mở miệng" ý nghĩa là sáng tạo văn hóa, sáng tạo nghệ thuật... cần ghi nhận!
Dù còn thắc mắc tại sao phải phân biệt đúng sai trong nghiên cứu khoa học, ÐTT vẫn có thể tự do nghiên cứu, kể cả nghiên cứu có sai lầm. Cũng không ai ngăn cản chị tự do công bố bài vở trên các trang mạng. Nhưng một luận văn khoa học thực hiện tại một trường đại học lại là chuyện khác, như Michel Beaud đã viết: "Dù không phải lúc nào cũng là một kiệt tác nhưng ít nhất cũng là một công trình để người nghiên cứu tự khẳng định mình, minh chứng được năng lực và chứng tỏ được khả năng thực hiện thành công một công trình nghiên cứu" (Michel Beaud, Nghệ thuật viết luận văn, NXB Tri thức, H.2013, tr.20).
Nói như Michel Beaud, thì luận văn về nhóm "Mở miệng" chưa phát lộ dấu hiệu khả năng nghiên cứu. Luận văn khoa học Ngữ văn nhưng tính Ngữ văn rất thấp, lại đậm đặc quan điểm chính trị cá nhân. Nhận xét của một số thành viên của Hội đồng chấm luận văn năm 2010 công bố trên blog cá nhân ÐTT cho thấy điều này: "Năng lực báo chí rất mạnh đã chi phối từ nhãn quan đến tư liệu và các thao tác làm việc.
Trong triển khai có thể thấy tính phê bình trội hơn nghiên cứu, tính chất đấu tranh xã hội mạnh hơn luận giải văn hóa, sự sắc sảo của lý trí mạnh hơn sự tinh tế của mỹ cảm. Và giọng "lý sự búa xua" đầy tính chủ quan luôn có xu hướng áp đảo" (PGS, TS CVS), "trong dịp trao đổi trực tiếp với một số học giả châu Âu gần đây, khi nói về hậu hiện đại, họ thừa nhận hậu hiện đại như một thực tế, nhưng đồng thời cũng lưu ý đó là mảnh đất cư trú của những kẻ thiên tài hoặc bất tài.
Tôi nói ý này mong tác giả luận văn lưu ý tới bản chất của vấn đề" (PGS, TS NÐÐ), "Tôi vẫn cho rằng, ngôn ngữ chính là sản phẩm của văn hóa, đồng thời là chỉ báo của văn hóa. Cho nên, nó có ý nghĩa lưu giữ ký ức tinh thần của dân tộc và mang tính bảo thủ (hiểu theo nghĩa tương đối bền vững, ổn định).
Tâm thức văn hóa giữ cho việc sử dụng ngôn ngữ của con người không sa vào sự văng tục văng mạng, đồng nghĩa với khiêu khích, phá phách. Cho nên, về điểm này, tôi là người không ủng hộ cho việc ca ngợi như trong luận văn đã thể hiện (tr.67). Ý thức về văn hóa như là cái phanh để giữ cho xã hội cũng như cá nhân tránh sa đà vào những lầm lạc có tính cách nhảm nhí (...). Sự tôn vinh quá mức về nhóm Mở Miệng trong vai trò "thực hành văn hóa" như trong luận văn thể hiện (tr.105) mang màu sắc cường điệu" (PGS, TS NVG),... Ðáng tiếc là dù nhận xét như thế, nhưng các thành viên nêu trên vẫn cho luận văn điểm 10!
Sau khi báo chí đăng bài phê phán nội dung và việc chấm điểm cao nhất cho luận văn này, trên internet xuất hiện ý kiến một số người bảo vệ ÐTT. Mới đây, sự kiện Trường ÐH Sư phạm Hà Nội lập Hội đồng thẩm định luận văn, quyết định thu hồi bằng, hủy luận văn thạc sĩ, thì họ không chỉ bảo vệ tác giả luận văn mà còn nhục mạ Hội đồng thẩm định. Nhân danh khoa học, nhưng các ý kiến này không đưa ra bất kỳ điều gì chứng minh việc lựa chọn đề tài, luận điểm của ÐTT trong luận văn là xác đáng về khoa học.
Họ tảng lờ các văn bản rác rưởi của "Mở miệng". Họ bảo vệ ÐTT một cách rất cảm tính: vì đó là "một cô gái", là người có "phong thái rất lịch thiệp, hồn nhiên, nhiều ưu tư và đầy nhân ái với/về đời sống". Họ biện hộ "cái sai lương thiện, có khả năng thúc đẩy tư duy để hướng tới cái đúng, cái khác". Họ đánh đồng cá nhân cụ thể với nghiên cứu khoa học. Họ hàm hồ kết luận: "Tất cả những bài đánh đấm luận văn của Nhã Thuyên đều không phải phê bình văn học"! Họ làm như học vị thạc sĩ đã được công nhận sẽ là bất khả xâm phạm.
Họ không cần biết nếu so sánh điểm c mục 3 Ðiều 26 Chương IV Thông tư 10/2011/TT-BGDÐT Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ: "Người phản biện phải là người am hiểu đề tài luận văn" với văn bản người phản biện đăng trên blog của ÐTT: "Phải thành thật mà thưa rằng một số vấn đề lý thuyết mà luận văn đưa ra để lấy đó làm điểm tựa cho việc triển khai hoặc tôi chưa có điều kiện để tâm đến nơi đến chốn, hoặc hoàn toàn mới mẻ so với tôi, thí dụ lý thuyết về samizdat chẳng hạn. Ðó là điều làm cản trở cho việc đọc thẩm định một luận văn đề cập tới một vấn đề phức tạp như thế này" thì chỉ riêng quy định đối với người phản biện cũng cho thấy luận văn cần phải thẩm định.
Trong luận văn, ÐTT sử dụng khái niệm samizdat (tiếng Ðức là Samisdat) để khẳng định, biện hộ "thơ rác, thơ dơ". Theo Wikipedia tiếng Ðức, Samisdat là khái niệm chỉ các ấn phẩm tự làm ra, bị cấm, nên ngoài việc đọc cho nhau nghe thì cách duy nhất là phổ biến bí mật. Với hình thức nhân bản truyền tay, Samisdat chỉ tồn tại trong thời chiến tranh lạnh, tác giả của Samisdat là một số người đi đầu phong trào chống chế độ.
Theo các tài liệu khác thì khẩu hiệu của những người đã làm ra Samisdat là: "Mehr Samisdat schafft mehr Opposition" (Nhiều samisdat tạo ra nhiều chống đối); câu này được viết theo một vòng hình elip, để từ đó có thể hiểu là: nhiều chống đối tạo ra nhiều Samisdat! Ở CHLB Ðức, sản phẩm Samisdat hiện chỉ được lưu giữ ở nhà bảo tàng, kho lưu trữ, chưa bao giờ được xuất bản. Một vài người vì tò mò, hoặc vì muốn cổ vũ phong trào chống đối tại một số nước thì ra vẻ nghiên cứu để khoác cho Samisdat nhãn nghệ thuật, khoa học; còn về đại thể thì đến nay không mấy ai biết Samisdat là cái gì, người thuộc cái gọi là "thơ" trong Samisdat lại càng không.
Vì Samisdat ra đời không phải vì mục đích văn học, mà chỉ là một phương tiện phục vụ hoạt động chính trị chống đối chế độ, nên khi "sứ mạng" xong rồi thì Samisdat cũng bị lãng quên.
Liên quan đến việc thẩm định luận văn của ÐTT, thật ngạc nhiên khi trên BBC tiếng Việt, ông Phạm Xuân Nguyên đưa ra ý kiến về việc ông gọi là "chính trị hóa", "phi khoa học" của "những thế lực" nào đó. Ở quốc gia nào cũng vậy, khi phát hiện một Hội đồng chấm luận văn có sai lầm nghiêm trọng thì đều phải thẩm tra lại. Ở CHLB Ðức, trường hợp tước học vị của ông Karl-Theodor zu Guttenberg, là một thí dụ.
Năm 2007, luận văn phó tiến sĩ luật của ông được đánh giá rất cao, nhưng sau bốn năm lại phát hiện có sai lầm, Viện kiểm sát phải vào cuộc. Rồi năm 2013, bà Annette Schavan bị tước học vị phó tiến sĩ vì trong luận văn triết học bảo vệ năm 1980, bà đã vi phạm các quy định. Mỗi trường đại học lại đưa ra nội quy về thủ tục thi và bảo vệ luận văn thạc sĩ. Về cơ bản, quy định tước học vị thạc sĩ của các trường là tương tự như nhau. Thí dụ, Ðiều 21 quy định thủ tục thi, bảo vệ luận văn thạc sĩ ngành kinh tế Trường Ðại học Tổng hợp Dortmund ghi rõ: Học vị thạc sĩ có thể bị tước nếu sau khi trao, phát hiện người làm luận văn lừa dối hoặc có sự ngộ nhận của hội đồng chấm luận văn.
Hội đồng khoa có thẩm quyền quyết định việc tước học vị. Như vậy việc chấm lại luận văn là rất bình thường. Nên ông Phạm Xuân Nguyên nói rằng có thế lực đã "chính trị hóa" việc thẩm định luận văn của ÐTT mà bỏ qua việc xác định "thơ dơ, thơ rác" có xứng đáng là đối tượng nghiên cứu, ca ngợi, rồi nhân danh khoa học để biện hộ quan điểm chính trị sai trái thể hiện trong luận văn,... thì thực chất chỉ là ý đồ biến một sự việc bình thường thành một sự kiện bất bình thường, rồi đẩy vấn đề sang lĩnh vực chính trị.
Chúng ta đều biết văn học là sản phẩm do con người làm ra, là một bộ phận của văn hóa. Ðể trở thành con người có văn hóa, mỗi người phải tự giác học hỏi, trau dồi các giá trị văn hóa, trong đó có việc học hỏi, trau dồi từ các tác phẩm văn học. Chỉ cần đọc những câu "thơ" được ÐTT dẫn lại trong luận văn cũng thấy quá tục tĩu, nên lẽ ra khi chọn góc nhìn văn hóa để nghiên cứu "thơ rác, thơ dơ", ÐTT và các thầy cô đã cho điểm 10 phải khẳng định "thơ rác, thơ dơ" là sản phẩm phản văn hóa, nhưng tiếc là ngược lại, họ biến "thơ rác, thơ dơ" thành sản phẩm văn hóa để ca ngợi! Những gì xảy ra ở Liên Xô và Ðông Âu trong quá khứ, được ghi lại trong sách báo đã chỉ rõ rằng, Samisdat là một công cụ nguy hiểm đối với xã hội. Do đó, một luận văn với lời ca ngợi mấy bài văn vần thiếu văn hóa, lại chứa màu sắc chính trị chống đối như vậy, không thể coi là luận văn khoa học, càng không thể được chấp nhận trong bất kỳ trường đại học nào trên thế giới, chứ không phải chỉ ở Trường ÐH Sư phạm Hà Nội.
Theo Nhân Dân