- 5 năm trước tôi và anh ấy dọn về ở chung. Bên nhà tôi và nhà anh đều có đãi tiệc mời họ hàng, bạn bè tham dự. Chỉ có điều chúng tôi không có đăng ký kết hôn. 

TIN BÀI KHÁC:


Chúng tôi có một con chung, khi khai sinh cho cháu có làm thủ tục công nhận cha con tại phường, giấy khai sinh của cháu có tên bố cháu. Hiện nay cháu 4 tuổi.

Tài sản lớn chúng tôi mua trong quá trình sống chung gồm 1 căn nhà, khi đó mua với giá 1,5 tỷ, ngôi nhà đứng tên tôi và một xe ôtô trị giá 900 triệu, đứng tên anh ấy. Quá trình chung sống nảy sinh nhiều mâu thuẫn, chúng tôi không thể tiếp tục sống chung. Tôi muốn chia tay, tôi sẽ nhận nuôi con và không yêu cầu anh ấy cấp dưỡng. Ngôi nhà đang đứng tên tôi thì tôi và con ở, còn xe ôtô anh ấy đứng tên anh ấy có thể lấy đi nhưng anh ấy không chịu. Anh ấy nói như thế thì thiệt cho anh ấy, anh ấy sẽ cấp dưỡng nuôi con theo tòa xử, còn tài sản anh ấy muốn chia đôi vì hiện nay ngôi nhà đang ở thì tăng giá, còn xe đi mấy năm rồi mất giá.

{keywords}
Ảnh minh họa


Theo câu hỏi của bạn có mấy ý sau, chúng tôi xin trả lời bạn cụ thể từng ý:

Một là, chúng tôi không có đăng ký kết hôn thì có phải làm thủ tục ra tòa ly hôn không? Hai là, tài sản được chia ra sao?

Ba là , con cái giải quyết ra sao?

Bốn là, nghĩa vụ cấp dưỡng thế nào?

Luật hôn nhân gia đình quy định về việc vợ chồng phải có đăng ký kết hôn và đáp ứng đủ các điều kiện theo pháp luật Hôn nhân và gia đình mới hợp pháp. Tuy nhiên trường hợp của bạn đã nói thì không có đăng ký kết hôn và sống với nhau mới chỉ có 5 năm kể từ ngày bạn gửi thư hỏi tư vấn cho chúng tôi trở về trước. Căn cứ tại Điểm a Mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 chúng ta thấy rằng trường hợp của bạn cũng không thuộc trường hợp hôn nhân thực tế vì nếu hôn nhân thực tế sẽ đáp ứng các điều kiện sau:

+ Về hình thức: Hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà không đăng ký kết hôn.

+ Về nội dung: Hai bên nam, nữ phải tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 1960 (và có quy định trừ những trường hợp cán bộ miền nam tập kết ra Bắc trước giải phóng lấy tiếp vợ 2 đã có thông tư số 60 thông qua ngày 22.2.1978 của Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn là: người chồng và hai người vợ có thể thoả thuận chung sống ổn thỏa, tức là toà án không phải huỷ hôn nhân lần thứ hai của họ. Điều đó có nghĩa là, hôn nhân thực tế dù không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được pháp luật công nhận. Chính vì thế mà việc ly hôn của những hôn nhân thực tế sẽ được giải quyết như vụ việc ly hôn có đăng ký kết hôn bình thường.

Do đó, trường hợp của bạn không được công nhận là vợ chồng: Tức cũng theo Nghị Quyết thì trường hợp sống chung kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi nam và nữ sống chung với nhau mà không đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Do đó bạn hỏi:

- Về ly hôn thì sẽ xử lý như sau: nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;

- Về con cái và tài sản thì sẽ xử lý như sau: nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng Khoản 2 và khoản 3 điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Điều đó có nghĩa là yêu cầu về con và tài sản sẽ được Tòa án giải quyết như đối với trường hợp ly hôn thông thường mà không có bất kể hạn chế nào về vấn đề này cho trường hợp không công nhận là vợ chồng.

+ Cụ thể về quyền nuôi con là: Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn: tức là vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ bảy tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.Do đó nếu con bạn trên 7 tuổi thì sẽ hỏi ý kiến của con. Trường hợp nếu con bạn dưới 36 tháng tuổi về nguyên tắc sẽ giao cho bạn nuôi. Nếu xét thấy một trong hai người mà có đủ các điều kiện như: thu nhập hàng tháng, có nơi sinh sống ổn định, có thời gian chăm sóc tốt cho con,... và xem xét nguyện vọng của hai cháu muốn ở với ai thì tòa sẽ quyết định ai được quyền nuôi con.

+ Cụ thể về chia tài sản là:

Với tài sản riêng: sẽ được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó;

Với tài sản chung: tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.

+ Cụ thể về cấp dưỡng:

Nếu Tòa án giao cho bạn nuôi con thì cha của đứa trẻ sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng. Căn cứ theo thu nhập của cha đứa trẻ mà đưa ra mức cấp dưỡng sao cho phù hợp hoặc hai bên thỏa thuận cùng nhau. Chúng tôi không đủ dữ liệu để khẳng định cha đứa bé sẽ cấp dưỡng là bao nhiêu nên nếu bạn có thắc mắc về phần này thì khi đưa đơn ra Tòa giải quyết Tòa án sẽ ra quyết định về mức cấp dưỡng cụ thể căn cứ trên thu nhập hoặc thỏa thuận của bạn và cha đứa bé.

Tư vấn bởi Luật sư Vũ Ngọc Dũng – Giám đốc điều hành của công ty Bắc Việt Luật. www.luathonnhan.net hoặc mail: lawyer.vu@bacvietluat.vn .