Trong nhiệm kỳ này, các cơ quan ở TƯ và địa phương sẽ tiến hành lấy phiếu tín nhiệm trong năm 2014; việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ tiến hành sau khi lấy phiếu tín nhiệm của QH đối với các chức danh do QH khoá XIII bầu hoặc phê chuẩn.
Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
TƯ Đảng khóa XI đã bế mạc chiều 14/5 sau 7 ngày làm việc.
Phát biểu bế mạc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khái quát lại những kết quả chủ
yếu của hội nghị (3 nội dung lớn) và nhấn mạnh thêm một số vấn đề để thống nhất
lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện.
Dưới đây là toàn văn Thông báo hội nghị Ban chấp hành TƯ Đảng khoá XI:
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khoá, từ ngày 8/5 đến ngày 14/5/2014, tại
Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã họp Hội nghị lần thứ
chín để thảo luận, cho ý kiến về : Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; Đề cương các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng; định hướng
chỉ đạo đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng; Quy chế bầu cử
trong Đảng; việc lấy phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá
XI về xây dựng Đảng; tổng kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng
nhân dân huyện, quận, phường và một số vấn đề quan trọng khác.
1- Về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hoá và
ban hành Nghị quyết "Về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII "Về xây dựng phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" ra đời là sự kế thừa và phát triển đường lối
của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, thể hiện bước chuyển quan trọng về tư
duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới; có tầm nhìn sâu
rộng, chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, khoa học và nhân văn.
Ban Chấp hành Trung ương nhận định: Kết quả nổi bật sau 15 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hoá là : Nhận thức về văn hoá của các cấp,
các ngành và toàn dân được nâng lên. Tư duy lý luận về văn hoá có bước đổi mới,
phát triển. Vai trò của văn hoá ngày càng thể hiện rõ hơn, nhiều giá trị văn hoá
dân tộc được phát huy. Con người Việt Nam phát triển cả về thể chất và trí tuệ
năng động, sáng tạo hơn. Dân chủ được mở rộng. Người dân có nhiều cơ hội tiếp
cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hoá. Môi trường văn hoá đạt được một
số tiến bộ. Việc xây dựng nếp sống văn hoá ở gia đình, làng, bản, khu phố, công
sở, đơn vị, doanh nghiệp, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại và tiếp tục có tiến bộ. Các thiết chế văn hoá được xây dựng, bổ
sung từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng loại hình, sở hữu. Văn học nghệ thuật
tiếp tục phát triển, với dòng mạch chính là yêu nước và nhân văn, phản
ánh chân thật cuộc sống; có tìm tòi về đề tài, phương pháp sáng tác,
hình thức diễn đạt. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước phát
triển; dân trí, nhân lực, trình độ học vấn, kỹ thuật, công nghệ của nhân dân,
nhất là giới trẻ, được nâng lên.
Thông tin, báo chí, xuất bản phát triển mạnh, nội dung phong phú, cơ sở
vật chất, kỹ thuật, công nghệ không ngừng được hiện đại hoá. Nhiều giá trị văn
hoá truyền thống được giữ gìn, phát huy, kết hợp tốt hơn với văn hoá đương đại.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân được
bảo đảm. Hoạt động văn hoá từng bước thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội
nhập quốc tế. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá được tăng cường. Công tác đào
tạo cán bộ và chuẩn bị nhân lực cho sự nghiệp văn hoá được quan tâm hơn. Việc
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng và Chỉ thị 03-CT/TW
của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh" đạt một số kết quả và tạo chuyển biến bước đầu trong Đảng và
trong xã hội. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng, góp phần giới
thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, kết quả đạt được trong xây dựng và
phát triển văn hoá chưa tương xứng với yêu cầu và chưa vững chắc; thiếu sự gắn
bó chặt chẽ giữa văn hoá với kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hoá;
chưa tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây dựng con người.
Tình trạng suy thoái về đạo đức tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của xã
hội. Đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, lạc hậu;
khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và
trong các tầng lớp nhân dân còn lớn. Thành tựu sáng tạo văn học, nghệ thuật chưa
nổi bật. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá ở một số nơi chưa tốt,
một số hủ tục, mê tín dị đoan có nguy cơ gia tăng. Giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ còn không ít mặt hạn chế, yếu kém. Số lượng cơ quan báo chí
không ngừng tăng nhưng hiệu quả chưa tương xứng, chưa quan tâm đúng mức yêu
cầu, xây dựng con người, phát triển văn hoá. Việc thể chế hoá các nghị quyết của
Đảng về văn hoá còn chậm, thiếu đồng bộ. Đầu tư cho lĩnh vực văn hoá còn thấp,
dàn trải, gián đoạn, hiệu quả thấp, chưa xác định rõ trọng tâm ưu tiên. Công tác
quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hoá các cấp, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu bài bản và tầm nhìn xa. Hoạt động giao lưu,
hợp tác văn hoá với nước ngoài còn hạn chế về đầu tư nguồn lực, về tầm nhìn,
tính hiệu quả.
Ban Chấp hành Trung ương đã nghiêm túc nhìn nhận, phân tích sâu sắc, chỉ rõ
nguyên nhân của những khuyết điểm, hạn chế nêu trên, nhất là nguyên nhân chủ
quan về nhận thức và tổ chức thực hiện Nghị quyết; đúc rút những bài học kinh
nghiệm qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII. Ban Chấp hành
Trung ương đặc biệt nhấn mạnh những đặc điểm mới của tình hình trong nước, quốc
tế; sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin, truyền thông; quá trình toàn cầu hoá, trong đó có toàn cầu hoá về văn hoá
đã và đang đặt ra những yêu cầu mới. Những thay đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế;
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; những biến
đổi to lớn trong các tầng lớp dân cư về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống;
yêu cầu xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam trong nhiều năm tiếp
theo đòi hỏi Đảng ta ban hành nghị quyết mới về văn hoá.
Nghị quyết thể hiện rõ, sâu sắc các chủ trương và quan điểm chỉ đạo : văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội; là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội sinh quan
trọng của sự phát triển bền vững đất nước; nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng tiêu biểu là dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học; trong xây dựng văn hoá, lấy chăm lo thường xuyên việc
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, lành mạnh làm cốt lõi, trọng
tâm; xây dựng môi trường văn hoá một cách đồng bộ, trong đó có vai trò rất quan
trọng của gia đình và cộng đồng, văn hoá trong chính trị, văn hoá trong kinh tế;
xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng; là sự nghiệp
lâu dài cần được tiến hành đồng bộ, sáng tạo và kiên trì.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, Ban Chấp hành Trung ương
xác định một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng, phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đả bản sắc dân tộc là : xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là nhân cách, lối sống; tiếp tục xây dựng
môi trường văn hoá lành mạnh, tạo điều kiện cho việc xây dựng nhân cách, lối
sống con người; chăm lo xây dựng văn hoá trong chính trị, văn hoá trong kinh tế
và văn hoá gia đình; phát triển và đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ; phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông tin
đại chúng, bảo vệ di sản văn hoá; phát triển công nghiệp văn hoá; chủ động giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá.
Tiếp tục đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo và quản lý văn hoá; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá. Đẩy nhanh và đổi mới việc thể chế hoá
các chủ trương, quan điểm của Đảng về văn hoá; tăng cường đầu tư nguồn lực cho
văn hoá; tiếp tục xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn
hoá; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá.
2- Về chuẩn bị đề cương các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI, để chuẩn bị Đại hội
XII của Đảng, Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Kinh tế - xã hội đã khẩn trương
chuẩn bị các dự thảo Đề cương Báo cáo chính trị và Báo cáo phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, xin ý kiến Bộ Chính trị tiếp
tục hoàn thiện để trình Trung ương xem xét, cho ý kiến tại Hội nghị này.
Ban Chấp hành Trung ương nhận định, đây là bước khởi đầu rất quan trọng, định
hướng chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. Qua thảo luận, Ban Chấp
hành Trung ương đã định hướng bước đầu về các vấn đề chủ đề của Đại hội, phương
châm của Đại hội, kết cấu của các đề cương Báo cáo; đồng thời đánh giá việc thực
hiện các chủ trương lớn, quan trọng của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các
nghị quyết Trung ương khoá XI (đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, thực hiện ba khâu đột phá chiến lược, việc điều chỉnh một số mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội sau Đại hội XI,...); về khả năng và mức độ thực hiện mục
tiêu tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; về việc nhận thức và giải quyết các vấn đề về chính sách xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát
triển; về dự báo những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, các nhân tố
và nguy cơ tác động trực tiếp đến sự phát triển của nước ta trong thời gian tới;
về tình hình tư tưởng, tổ chức, hoạt động của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị; về các nguồn lực và các giải pháp để phát huy tốt nhất, thực hiện có
hiệu quả nhất các chủ trương, định hướng phát triển đất nước trong những năm sắp
tới; về vấn đề độc lập tự chủ và mở rộng, tăng cường hội nhập quốc tế;...
Trong quá trình thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ ra tính chất, mục
tiêu, yêu cầu và phạm vi của mỗi báo cáo và mối quan hệ giữa các báo cáo này.
Báo cáo chính trị là văn kiện trung tâm của Đại hội, có nhiệm vụ tiếp tục cụ thể
hoá Cương lĩnh của Đảng để lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong nhiệm kỳ mới. Nội dung của Báo cáo chính trị phải mang tầm
khái quát cao những vấn đề thuộc về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo cáo kinh tế - xã hội là báo
cáo chuyên sâu, cụ thể hoá về đường lối, chủ trương, phát triển kinh tế - xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về Đề cương Báo cáo chính trị
và Đề cương Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016 - 2020 trình Đại hội XII. Ban Chấp hành Trung ương đã giao Bộ Chính trị,
căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo giải trình, tiếp
thu của Bộ Chính trị, chỉ đạo Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại
hội XII nghiên cứu, tiếp thu, xây dựng dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo Báo
cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 trình
Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khoá XI.
3- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thông qua Quy chế bầu cử trong Đảng
và giao Bộ Chính trị, căn cứ kết quả biểu quyết, ý kiến thảo luận của Ban Chấp
hành Trung ương, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Bộ Chính trị, chỉ đạo hoàn
chỉnh, ban hành Quy chế và chỉ đạo tổ chức thực hiện.
4- Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định : Tiếp tục thực hiện chủ trương lấy
phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng" đối với thành viên
lãnh đạo cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, với sự điều chỉnh sau : Việc lấy phiếu
tín nhiệm được tiến hành định kỳ vào năm thứ 3 (năm giữa nhiệm kỳ đại hội) và
khi có yêu cầu của cấp có thẩm quyền.
Trong nhiệm kỳ này, các cơ quan, đơn vị ở Trung ương và địa phương (kể cả những
nơi đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm trong năm 2013) sẽ tiến hành lấy phiếu tín
nhiệm trong năm 2014; việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Bộ Chính trị,
Ban Bí thư sẽ tiến hành sau khi lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các
chức danh do Quốc hội khoá XIII bầu hoặc phê chuẩn.
Ban Chấp hành Trung ương đã giao Bộ Chính trị, căn cứ kết quả biểu quyết và ý
kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ
Chính trị, để sửa đổi, bổ sung Quy định số 165-QĐ/TW, ngày 18-02-2013 của Bộ
Chính trị về lấy phiếu tín nhiệm để triển khai thực hiện chủ trương.
5- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và cho ý kiến về Báo cáo của Ban cán sự
Đảng Chính phủ về tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận,
phường. Ban Chấp hành Trung ương đã giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận
của Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Bộ Chính trị, chỉ
đạo Ban cán sự Đảng Chính phủ hoàn chỉnh Báo cáo tổng kết và chuẩn bị Dự án Luật
Tổ chức chính quyền địa phương trình Quốc hội xem xét, quyết định. Trước khi
Quốc hội thông qua Dự án Luật này, Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương
quyết định mô hình tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
6- Ban Chấp hành Trung ương đã đồng ý tổ chức Đảng bộ Ngoài nước trực thuộc
Trung ương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Ban Bí thư.
Giao Bộ Chính trị, căn cứ kết quả biểu quyết, ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành
Trung ương, Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, hoàn chỉnh và ban
hành Quyết định về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Đảng uỷ Ngoài nước
để tổ chức này sớm đi vào hoạt động.
7- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, góp ý vào dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính
trị khoá XI về đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng để Bộ Chính trị nghiên cứu, tiếp thu và ban hành Chỉ thị.
8- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về Báo cáo các công việc
quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ Hội nghị Trung ương 8 đến Hội nghị
Trung ương 9.
9- Ban Chấp hành Trung ương theo dõi sát tình hình, nghe báo cáo của các cơ quan
chức năng về việc thực hiện các chủ trương, giải pháp của ta phản đối, đấu tranh
đòi phía Trung Quốc phải dừng việc đặt giàn khoan thăm dò dầu khí Hải Dương 981
trong vùng biển nước ta và khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn
kết một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở
tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những thoả thuận giữa
lãnh đạo cấp cao Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình,
ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng
cường đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực cả nước một lòng vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; đồng
thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để hợp tác và phát triển; phấn đấu
hoàn thành các mục tiêu mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.