Câu hỏi thú vị, không phải là liệu nhà nước có nên xây dựng cơ sở hạ tầng hay không, mà là họ nên xây dựng bao nhiêu. Giống như bất kỳ khoản đầu tư nào khác, xây dựng hạ tầng cần tính toán hiệu quả kinh tế để sao.

>> Trung Hoa khó đóng vai bá chủ với mô hình lỗi thời

>> 'Điều tồi tệ nhất của bảo hộ là khó xóa bỏ nó'

Cải thiện cơ sở hạ tầng bên trong

Yếu tố thứ hai của Hệ thống Mỹ là cải thiện trong nước, mà ngày nay thường được gọi là đầu tư cơ sở hạ tầng. Những người ủng hộ Hệ thống Mỹ yêu cầu chính quyền liên bang và tiểu bang phải thiết kế, tài trợ và xây dựng kênh đào, cầu cảng, đường sá, và một loạt các cơ sở giao thông liên lạc khác để cho phép các doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả và lợi nhuận. Trong một số trường hợp các dự án này được bù đắp ngay lập tức (như phí cầu đường) và trong nhiều trường hợp khác chúng được trả bằng tiền thuế tăng lên nhờ hoạt động kinh tế sôi nổi hơn.

Không khó để giải thích cho vai trò của nhà nước trong đầu tư cơ sở hạ tầng. Chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng thường rất cao, trong khi dù lợi ích có thể cũng lớn, nhưng chúng lại rải rác trong khắp nền kinh tế, khiến cho bất kỳ cá nhân công ty nào cũng rất khó tìm đâu ra cách hấp thụ các chi phí đầu tư. Trong trường hợp này, nhà nước nên tài trợ đầu tư cơ sở hạ tầng và bù đắp chi phí bỏ ra bằng lượng thuế tăng thêm nhờ hoạt động kinh tế mở rộng hơn.

Ảnh minh họa

Theo tôi, câu hỏi thú vị, đặc biệt trong hoàn cảnh của Trung Quốc, không phải là liệu nhà nước có nên xây dựng cơ sở hạ tầng hay không, mà là họ nên xây dựng bao nhiêu.

Trên thực tế, đây là một trong những vấn đề gây rắc rối nhất trong các cuộc tranh luận tại Trung Quốc. Đa số những người ủng hộ ngầm cho rằng chi tiêu đầu tư cơ sở hạ tầng luôn luôn tốt và khối lượng cơ sở hạ tầng ít nhất cũng phải bằng với mọi quốc gia khác, và họ đem so sánh tổng vốn đầu tư xã hội bình quân đầu người với Mỹ, Nhật Bản và kết luận rằng Trung Quốc cần một khối lượng đầu tư lớn hơn nữa bởi mức độ đầu tư trung bình đầu người còn kém xa các nước kia.

Nhưng điều đó hoàn toàn sai, và thậm chí còn vô lý. Đầu tư cơ sở hạ tầng giống như bất kỳ khoản đầu tư nào khác trong đó cần tính toán hiệu quả kinh tế để sao cho tổng giá trị kinh tế tạo ra từ khoản đầu tư lớn hơn tổng chi phí kinh tế gắn liền với khoản đầu tư đó. Nếu một quốc gia chi tiêu nhiều cho đầu tư hơn so với sự gia tăng năng suất mà nó mang lại, thì việc xây dựng thêm cơ sở hạ tầng chỉ khiến họ nghèo đi chứ không giàu lên.

Ở Trung Quốc, tồn tại nhiều vấn đề ở cả hai vế của phương trình. Trước hết, họ không biết chi phí kinh tế thực sự của mỗi khoản đầu tư tại Trung Quốc là bao nhiêu. Để tính toán chi phí thực, không chỉ cần bổ sung các chi phí trực tiếp, mà còn tất cả các khoản trợ cấp công khai và kín đáo, đa số trong số đó là những chi phí ngầm hoặc rất khó tính toán.

Điểm quan trọng nhất của những khoản trợ cấp này là có xu hướng trợ cấp lãi suất, và điều này có ảnh hưởng rất lớn. Đơn cử, nếu lãi suất ở Trung Quốc bị ấn định thấp so với thực tế tới 5 điểm phần trăm, thì một khoản đầu tư 100 triệu USD nhận được số tiền trợ trợ cấp 5 triệu USD mỗi năm và các khoản vay này gần như không bao giờ được hoàn lại tại Trung Quốc. Trong vòng 10-20 năm dư nợ có thể tăng thêm 30-40% vào chi phí đầu tư ban đầu. Điều đó có nghĩa là, chi phí xác định ban đầu của một dự án đầu tư thấp hơn nhiều so với chi phí kinh tế thực, với chênh lệch thường bị che đậy trong các khoản trợ cấp công khai hoặc ngầm định.

Nhưng vấn đề lớn hơn nằm ở giá trị tạo ra từ khoản đầu tư. Chúng ta có thể liên hệ đầu tư cơ sở hạ tầng chủ yếu như một chức năng của giá trị lao động tiết kiệm được. Ở những nước có năng suất lao động thấp, mỗi giờ lao động tiết kiệm được sẽ ít có giá trị hơn so với mỗi giờ tiết kiệm được tại các quốc gia có năng suất lao động cao. Vì lý do này mà các quốc gia năng suất thấp phải có vốn đầu Trung Quốc xã hội bình quân đầu người lớn hơn các nước năng suất cao.

Điều này nghe chừng rất dễ hiểu, nhưng thường ta không thấy rõ như vậy. Khi các nhà phân tích chỉ vào cơ sở hạ tầng chất lượng cao của Trung Quốc, với chất lượng vượt trên cả cơ sở hạ tầng so với ở các nước giàu, điều đó không hẳn đã tốt. Đây chỉ là một ví dụ về sự lãng phí khi chi tiêu được trợ cấp quá cao, khi có những khuyến khích về chính trị (hoặc bằng tiền) lớn đối với việc mở rộng đầu tư, và khi sự minh bạch và trách nhiệm giải trình còn thấp.

Những vấn đề khác cũng rất cần được quan tâm. Nếu một quốc gia có mức đầu tư xã hội thấp - nếu việc thành lập doanh nghiệp tại quốc gia đó khó khăn, nếu các doanh nghiệp kém hiệu quả có sự móc ngoặc với chính phủ và canh tranh thắng lợi trước các công ty có hiệu quả hơn mà không có quan hệ với chính quyền, nếu cấu trúc chính trị và pháp luật tạo ra những vấn đề trong quản trị doanh nghiệp (đặc biệt là vấn đề "người môi giới"), nếu khuôn khổ pháp lý yếu, nếu quyền sở hữu trí tuệ không được tôn trọng, nếu tài sản sở hữu trí tuệ có thể dễ dàng bị đánh cắp - thì khi đó phần lớn chi tiêu đầu tư cơ sở hạ tầng sẽ có nguy cơ bị lãng phí.

Thực tế chứng minh, có thể sẽ hiệu quả hơn nếu tập trung vào cải thiện khuôn khổ pháp lý hơn là xây dựng thêm các sân bay, ngày cả khi (và có lẽ bởi vì) xây dựng sân bay đóng góp cho tăng trưởng (và của cải cho những người có quan hệ chính trị) ngày nay. Vốn đầu tư xã hội yếu trở thành một sự kiềm chế đối với khả năng khai thác giá trị từ cơ sở hạ tầng, và rào cản này rất cao ở một số nước nghèo với khuôn khổ thể chế yếu.

Hành trình về phía Tây

Vấn đề đầu tư bao nhiêu là đủ là một chủ đề rất quan trọng và cần được thảo luận kỹ lưỡng hơn nữa, nhưng tôi nghĩ có một ví dụ rất tốt lý giải tại sao chúng ta cần quan tâm việc tăng đầu tư cơ sở hạ tầng tại Trung Quốc có hiệu quả đến đâu. Điều này thể hiện rõ nhất trong nỗ lực thúc đẩy phát triển tại khu vực phía tây nước này.

Thông thường khi tôi đặt câu hỏi về giá trị kinh tế của việc Trung Quốc thúc đẩy phát triển khu vực nghèo hơn ở phía tây nước này (nói thêm là giá trị kinh tế không đồng nhất với giá trị xã hội và chính trị, và các giá trị sau giải thích vì sao các dự án không có tính khả thi về mặt kinh tế vẫn được triển khai), tôi gần như luôn muốn hướng đến câu chuyện về miền tây nước Mỹ. Trong thế kỷ 19, như mọi người đều biết, Mỹ thực hiện "tây tiến" và đa số các nhà kinh tế nhất trí rằng điều đó có ý nghĩa về mặt kinh tế cho nước này và là một phần quan trọng trong quá trình vươn lên trở thành quốc gia thịnh vượng và năng suất nhất trong lịch sử.

Nhưng cần phải thận trọng với việc học hỏi từ kinh nghiệm của Mỹ. Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trong lịch sử thực hiện "tây tiến". Một số quốc gia khác cũng làm như vậy, nhưng vì một số lý do, chúng ta nên bỏ qua những kinh nghiệm của họ khi thảo luận về Trung Quốc. Đơn cử, Brazil cũng đi về phía tây và phía bắc trong những năm 1950 và 1960 khi muốn mở rộng phát triển từ các khu vực duyên hải giàu có phía nam sang khu vực Amazon và Caribbe. Liên Xô cũng làm tương tự sau chiến tranh thế giới thứ hai khi nước này tiến về phía đông theo hướng Siberia.

Phần lớn các nhà kinh tế học ngày nay đồng ý rằng Brazil và Liên Xô đã không thành công về mặt kinh tế và để lại cho nước này những gánh nặng nợ lần khổng lồ đến mức chúng ít nhiều là nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ tại Brazil vào những năm 1980 và sự sụp đổ của nền kinh tế Liên Xô trong những năm 1970. Nói cách khác, việc Trung Quốc tiến về phía tây cũng đã có cả những tiền lệ thành công và thất bại ở những nước khác.

Điểm khác biệt ở đây là gì, và làm sao áp dụng chúng? Một lần nữa tôi phải nói rằng tôi chưa thể hiểu hay giải thích đầy đủ những điều ấy, nhưng có một điểm khác biệt lớn nổi lên. Ở Mỹ đó là một khu vực tư nhân luôn sẵn sàng tìm kiếm cơ hội lợi nhuận, điều đã dẫn tới quyết định hướng về phía tây của chính phủ, và theo sau đó là các khoản đầu tư công dồn dập. Tuy nhiên, ở Brazil và Liên Xô, không có nhiều khuyến khích cho khu vực tư nhân lãnh đạo quá trình này. Chính chính phủ mới là người dẫn đường, và các doanh nghiệp tư nhân theo sau chỉ bởi vì chi tiêu chính phủ tạo ra những cơ hộ béo bở. Một khi chi tiêu chính phủ ngừng lại thì hoạt động của doanh nghiệp tư nhân cũng vậy.

Kết luật ban đầu của tôi là tham vọng của một chính phủ lớn kết hợp với động cơ chính trị mạnh mẽ và được tài trợ bởi nguồn tín dụng ưu đãi và dễ tiếp cận rất dễ dẫn tới những kiểu đầu tư sai lầm. Kinh nghiệm về đầu tư chính phủ của Mỹ trong thế kỷ 19, nói cách khác, là một trường hợp tiền lệ không dễ áp dụng đối với các quốc gia muốn mở rộng phát triển ra tất cả các vùng trong nước.

Trâm Anh theo Mpettis

Tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt