Khi ông nảy sinh ý tưởng đem các kỷ vật của một thời “không thể nào quên” ấy về nhà để lưu giữ với một mong muốn cháy bỏng: Đó là, giáo dục truyền thống cách mạng cho lớp trẻ và tưởng nhớ, tri ân những người đồng đội đã cùng ông trải qua những tháng ngày nghiệt ngã ở “địa ngục trần gian” Phú Quốc, vợ con ông đều cho là gàn dở “rước ma về nhà”. Nhưng giờ đây, không chỉ người từ các địa phương trong cả nước mà còn có nhiều người nước ngoài đã đến thăm bảo tàng…

Người “khai sinh” bảo tàng

Từ Hà Nội chúng tôi xuôi Quốc lộ 1A để tìm về làng Nam Quất, xã Nam Triều, Phú Xuyên (Hà Nội) nơi đó có một địa chỉ đỏ - Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày. Gọi đây là một bảo tàng đặc biệt ở Việt Nam thì cũng không ngoa. Bảo tàng do ông Lâm Văn Bảng, thương binh hạng 2/4, nguyên chiến sĩ cách mạng bị bắt tù đày ở đảo Phú Quốc từ năm 1970 đến 1973 đã tự hiến toàn bộ khuôn viên của gia đình, cùng những cựu tù Phú Quốc bỏ bao công sức sưu tầm hiện vật và xây dựng nên.

Hơn ba nghìn hiện vật quý, minh chứng cho những tội ác tày trời của kẻ thù trong nhà tù với các chiến sĩ cách mạng đã quy tụ trong khuôn viên rộng hơn nghìn mét vuông của gia đình ông Lâm Văn Bảng. Nước da đen sạm, dáng vóc gầy nhưng nhanh nhẹn, ít ai biết rằng ông đã bước sang tuổi "cổ lai hy", đã từng 7 lần lên bàn phẫu thuật và sống chỉ bằng một quả thận. Ông nhập ngũ năm 1965, là chiến sĩ Trung đoàn Bình Giã, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ông bị thương gãy cả chân, tay và bị địch bắt sau đó đem đày ra đảo Phú Quốc.

Quãng thời gian “tôi luyện da thịt” ở “địa ngục trần gian” Phú Quốc cũng là khoảng thời gian kinh hoàng nhất đối với những người tù cộng sản như ông. Địch đã dùng nhiều hình thức tra tấn hết sức dã man, tàn bạo mà mới chỉ nghĩ đến đã rùng mình: Nhẹ thì giội nước sôi vào miệng, nhốt trong “chuồng cọp”, cặp điện vào tai… Nặng thì lấy kìm nhổ móng tay, móng chân, đập gãy hết răng, đóng từng chiếc đinh vào đầu cho đến chết… Nhưng vượt lên trên tất cả mọi sự đau đớn về thể xác, ông Bảng và đồng đội vẫn một lòng trung kiên với Đảng, với cách mạng. Đôi khi sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc, nhưng những người lính Cụ Hồ vẫn đấu tranh đến cùng “thà mình chết chứ không thể phản bội lại Tổ quốc”.

Những chiếc đinh mà bọn cai ngục dùng để đóng vào chân, tay tù nhân tại Phú Quốc.

Năm 1973, ông Bảng và đồng đội được trở về theo Hiệp định Pa-ri, ông về quê hương và công tác trong ngành giao thông vận tải. Năm 1985, Hạt quản lý Quốc lộ 1A (Công ty Quản lý đường bộ 208) do ông làm Hạt trưởng được phân công nhiệm vụ sửa chữa đoạn đường Cầu Giẽ. Đơn vị ông đã vô tình tìm thấy một quả bom tấn của giặc Mỹ ném xuống, sau khi tháo thuốc nổ, ông đã xin vỏ của quả bom mang về cơ quan trưng bày, mỗi lúc rảnh rỗi ông lại ra ngắm nghía say mê “công trình lịch sử” của mình và nhớ lại những tháng ngày không tiếc máu xương cùng đồng đội. Cũng từ đó ông nảy ra ý định, sưu tầm tất cả những kỷ vật của một thời “không thể nào quên” ấy với một mong muốn cháy bỏng đó là giáo dục truyền thống cách mạng cho lớp trẻ và tưởng nhớ, tri ân những người đồng đội đã cùng ông trải qua những tháng ngày nghiệt ngã tại Nhà tù Phú Quốc. Ông bàn ý tưởng của mình với anh trai là ông Lâm Văn Quần, cũng là người bị giặc Pháp bắt tù đày và nhận được sự ủng hộ của anh.

Năm 1995, một cuộc gặp mặt những chiến sĩ, tử tù từng bị địch bắt và tù đày, quê ở Phú Xuyên do ông Quần làm trưởng ban liên lạc được tổ chức. Ông Quần tiết lộ, mình và ông Bảng đã gom được một số hiện vật, đề xuất với mọi người mong muốn sưu tầm những kỷ vật kháng chiến. Ý tưởng đó được Đại tá Tô Diệu, nguyên Cục phó Cục Địch vận, Tổng cục Chính trị hưởng ứng và giúp đỡ. Các đồng đội cũng quyết dốc sức với ông. Vậy là gần hai mươi năm nay, các cựu tù Phú Quốc đã lặn lội khắp nơi, từ Bắc chí Nam, từ đất liền tới hải đảo để gom góp mang về những kỷ vật chiến tranh...

Ngôi nhà hai tầng của gia đình ông Bảng chính là nơi trưng bày, lưu giữ những hiện vật. Các ông đặt cho ngôi nhà chung của mình một cái tên khiêm tốn: "Phòng truyền thống các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày". Nhưng với mọi người thì đây thật sự là một bảo tàng sống, là nơi lưu giữ những kỷ niệm về một thời gian khổ, ác liệt của những người từng trải qua cuộc chiến, một bảo tàng tố cáo tội ác của đế quốc, khẳng định chí khí của người chiến sĩ cách mạng.

Hiện thân của những câu chuyện bi hùng

Trong số hơn ba nghìn hiện vật được trưng bày tại bảo tàng, mỗi hiện vật lại có một hành trình, một số phận riêng. Bản thân những hiện vật ấy đã mang dấu ấn của lịch sử, và phía sau chúng là những câu chuyện đầy ý nghĩa.

Ông Kiều Văn Uỵch, một người bạn tù của ông Bảng chỉ cho chúng tôi xem chiếc “chuồng cọp” và bức tượng người ngồi gò lưng bên trong khiến ai nhìn thấy cũng không khỏi xúc động, đây là hình ảnh mô phỏng chính ông trong lần kiên cường đấu tranh với địch. Ông kể lại: Một lần chúng tôi tổ chức đấu tranh chống lại việc làm hàng rào, biến trại tù thành khu quân sự của địch. Chúng nhốt tôi trong cái lồng sắt rộng 80cm, dài 1m, cao 70cm và chằng kín dây thép gai, khiến người không thể co duỗi được. Cái lồng sắt ấy địch gọi là “chuồng cọp” và đem đặt chúng tôi giữa bãi cát với độc chiếc quần đùi. Ban ngày nắng như đổ lửa, cát nóng như rang, làm cho da tù binh phỏng rộp, đầu cứ ong ong như sắp nổ tung. Ban đêm gió biển thổi lạnh, thì chúng lại múc nước giội vào làm cho chân tay người tù cứng lại, hàm răng đánh vào nhau lập cập. Mỗi ngày chúng chỉ cho ăn một nắm cơm trộn muối và một chén nước nhỏ. Có lần phát hiện anh em tiếp tế, chúng dùng ni-lông đốt cháy cho chảy nhựa xuống đầu và cổ, da thịt bỏng cháy, tróc ra từng mảng. Chúng gọi trò đó là “B-52 ném bom”. Đã có nhiều đồng chí sau vài hôm nằm "chuồng cọp" bị cảm thương hàn rồi hy sinh. Chỉ sang mô hình chiếc thùng phuy úp ngược, ông Uỵch cho biết đó là biểu tượng dành cho đồng chí Bảy Ly người Củ Chi, bị tra tấn cho đến chết vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Đồng chí Bảy Ly bị chúng bắt ngồi vào thùng phuy úp ngược rồi dùng búa lớn đập mạnh trên đầu, sức ép, tiếng vang làm máu ộc ra đằng mũi, tai, rồi vỡ động mạch mà chết. Còn đây là tượng đồng chí Dương Bá Ngải, người thôn Trình Yên, xã Phú Túc bị chúng treo ngược lên xà, tra tấn cho đến chết…

Trong số những hiện vật gốc mang về từ Phú Quốc như roi cá đuối đánh tù nhân tróc da thịt, có người bị đánh hở cả gan ruột; kìm bẻ răng, chiếc lược và con dao người quản trang ở Phú Quốc đã thu được sau khi bốc mộ một chiến sĩ tù trên đảo… tôi đặc biệt chú ý đến chiếc đinh nhỏ trong một chiếc hộp bọc nỉ đỏ ở khu trưng bày. Ông Uỵch cho biết, đó là những chiếc đinh mà địch lấy để đóng vào đầu đồng chí Phạm Hồng Sơn, một Thiếu úy Đặc công Hải quân tại Nhà tù Phú Quốc cho đến khi anh chết. Khi ra Phú Quốc bốc mộ bạn, ông Bảng đã lấy những chiếc đinh này từ hộp sọ người đồng đội đem về như một kỷ vật để mọi người nhớ đến anh, đây cũng là bằng chứng thiết thực nhất về những tội ác dã man của đế quốc Mỹ trong nhà tù.

Còn đây, bộ cắt móng tay, móc tai, dao rọc giấy được “chế tạo” trong tù. Để có nó, bốn năm trời ông Bảng và hai đồng đội của mình là Chu Hữu Ngọc và Nguyễn Huy Sang đã phải đi tàu vào Khánh Hòa vận động đồng chí Lương Minh Dũng, Bí thư Huyện ủy Diên Khánh để đem về bộ cắt móng tay, móc tai, dao rọc giấy - những thứ được coi là báu vật của dòng họ Lương. Gia đình anh Dũng có tới 4 người đều là chiến sĩ cách mạng bị địch bắt đày đi Phú Quốc gồm cha anh, bản thân anh và hai người chú. Chiếc bấm móng tay đã được cha anh làm trong nhà tù, cha anh bị địch tra tấn dã man đến chết, nó được các bạn tù của cha anh trao lại cho anh, nay những người thân tham gia cách mạng đều không còn, hiện vật đó được anh đặt trang trọng trên bàn thờ gia tiên. Ông Bảng và đồng đội đã phải vận động và thuyết phục nhiều lần để anh Dũng đồng ý trao lại kỷ vật ấy để trưng bày tại phòng truyền thống. Trước khi trao kỷ vật, anh Dũng còn làm lễ xin phép cha cẩn thận.

Một hiện vật “đặc biệt” khác trong bảo tàng mà khi xem ai cũng cảm phục trước chí khí của những người chiến sĩ cách mạng, ông Bảng phải mất rất nhiều thời gian mới mang về được - đó là lá cờ Đảng do người bạn tù Phú Quốc tự thêu trong khi bị giam giữ. Đây là kỷ vật nuôi dưỡng niềm tin để những người tù Phú Quốc bền chí và kiên cường đấu tranh với kẻ thù. Lá cờ là minh chứng cho lòng trung thành của họ với Đảng. Dưới lá cờ này, họ đã làm lễ kết nạp đảng viên cho nhiều đồng chí.

Lá cờ chỉ nhỏ bằng bao thuốc lá đã được những người tù chuyền tay nhau giữ suốt nhiều năm và cuối cùng được đồng chí Nguyễn Văn Dư ở Hồng Dương, Thanh Oai (Hà Nội) giữ. Mỗi lần địch lục soát, ông Dư lại cuốn nhỏ lá cờ vào túi ni-lông, dùng dây chỉ buộc vào răng, thả vào cổ họng cho trôi xuống dạ dày. Lúc an toàn lá cờ lại được kéo ra treo ngay ngắn trên tường để động viên, nhắc nhở và củng cố quyết tâm đấu tranh của các chiến sĩ trong tù. Để có được lá cờ trưng bày trong bảo tàng, nhiều lần ông Bảng phải đạp xe hàng trăm cây số đến nhà ông Dư mới thuyết phục được ông trao lại lá cờ nhỏ cho bảo tàng. Gần đây, một du khách nước ngoài đến bảo tàng tham quan, sau khi nghe ông Bảng kể về lai lịch lá cờ đã xin mua với giá 40.000USD. Ông Bảng và các cựu tù Phú Quốc đã từ chối thẳng bởi “Lá cờ này là xương máu của đồng đội, là linh hồn của Tổ quốc, là báu vật vô giá của những đảng viên bị tù đày”.

Trong số các hiện vật tìm về, ông Chu Hữu Ngọc cũng có những chuyến đi đáng nhớ. Lần lên Vĩnh Phúc xin cuốn sổ ghi chép nghị quyết, học tập chính trị của những chiến sĩ cách mạng trong tù do gia đình ông Nguyễn Trung Màu, một cựu tù Phú Quốc đang giữ là chuyến đi gặp nhiều trắc trở. Hiện vật là một cuốn sổ nhỏ bằng hai đầu ngón tay. Lần đầu ông lên thì người chồng đồng ý, nhưng người vợ lại không. Lần thứ hai cả hai vợ chồng ông đồng ý nhưng người con lại không chịu. Lần thứ ba khi cả gia đình đồng ý thì ông trưởng họ lại “tuyên bố” đây là vật quý, phải giữ lại, thế là ông Ngọc đành ra về. Phải đến lần thứ tư ông mới mang được cuốn sổ về phòng trưng bày như hôm nay…

Còn rất nhiều những tư liệu, hiện vật khác trong số hơn ba nghìn hiện vật tại bảo tàng mà ông Bảng và đồng đội đã sưu tầm được. Nhiều người khi trao hiện vật còn bắt ông viết giấy biên nhận cẩn thận. Cũng có những bức thư tay của đồng đội khi gửi hiện vật về đã gửi cho ông, tất cả đều được trân trọng, giữ gìn và có được vị trí xứng đáng trong phòng trưng bày.

Không chỉ có những hiện vật trưng bày trong bảo tàng, bản thân những cựu tù Phú Quốc cũng đã là những “hiện vật” biết nói. Họ là những “nhân chứng sống” đã tận mắt chứng kiến và chịu đựng những cực hình của địch. Trò chuyện cùng chúng tôi, ông La Hậu kể lại: Một lần chúng tôi tổ chức kết nạp Đảng và đoàn trong nhà tù dịp 26-3 nhưng bị địch phát hiện do có kẻ chiêu hồi phản bội. Tôi là người chỉ đạo anh em nên bị chúng tra tấn dã man. Chúng hỏi tôi ba lần nhưng tôi không trả lời, còn chửi lại bọn chúng, vậy là chúng điên cuồng dùng dùi cui phang vào miệng tôi, sau đó dùng búa và kìm bẻ gãy hai chiếc răng của tôi. Lúc đó tôi không hề kêu ca, tôi ngậm miệng lại và phun máu vào mặt bốn thằng lính ngụy. Trong những đợt nổi dậy chống đánh đập tù binh, chống chào cờ Mỹ, chống đi lao động, chống bớt khẩu phần ăn. Nhiều người đã xung phong tự mổ bụng mình để phản đối chế độ hà khắc và sự tra tấn dã man, vô nhân đạo, vô nhân tính của địch. Do có nhiều anh em “đòi” được tự mổ bụng mình, chi bộ đã phải họp và xem xét quyết định, trong đó các ông Nghị (Hà Nội), ông Kim (Bắc Ninh), ông Cự (Nghệ An)… đã được chi bộ đồng ý. Khi cho chúng tôi xem những vết thương đã thành sẹo của mình, các ông dường như đang sống lại những ngày tháng cực hình nơi địa ngục trần gian Phú Quốc.

Cây đa do đồng chí Trương Tấn Sang- Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (nay là Chủ tịch nước) trồng tại bảo tàng.

Gặp chúng tôi, ông Tống Trần Hội (Sóc Sơn, Hà Nội), một cựu tù Phú Quốc đã cho chúng tôi xem đôi chân bị địch cắt gân, tháo khớp gối: “Trong một lần đi trinh sát ở vùng hậu chiến, tôi bị địch bắt và đày ra Phú Quốc. Khi bắt được tôi chúng đã dùng những thủ đoạn tra tấn hết sức dã man để buộc tôi cung khai, nhưng chúng chẳng thu được gì. Vậy là chúng cắt gân ở hai chân, tháo khớp gối của tôi làm tôi chết đi sống lại nhiều lần. Đến bây giờ chúng tôi có thể hoàn toàn tự hào rằng mình đã chiến thắng kẻ thù và chiến thắng chính bản thân mình”.

Mỗi hiện vật mà chúng tôi nhìn thấy trong bảo tàng đều gắn với một câu chuyện bi hùng, gắn với những kỷ niệm không thể nào quên của những chứng nhân lịch sử. Mỗi hiện vật ở đây như một ngọn lửa nhỏ tự nó cháy sáng lên và có lẽ sẽ không bao giờ tắt...

Thông điệp cho hôm nay và mai sau

Cho đến nay, Bảo tàng các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày đã đón hàng vạn lượt người tới thăm viếng. Năm sau nhiều hơn năm trước, hầu hết đoàn đến để tham quan và tri ân các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, không ít đoàn đến để dâng hương và cầu siêu các anh hùng liệt sĩ. Có những đoàn đến cầu siêu tới 600-700 người. Ông Kiều Văn Uỵch, Phó giám đốc Bảo tàng cho biết: “Nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ vừa qua, anh em chúng tôi đã đón hơn 5.000 lượt người tới thăm”. Khách đến thăm bảo tàng không chỉ là các cựu chiến binh, các cơ quan, đơn vị, địa phương mà còn có rất đông các cháu học sinh. Đây thực sự đã trở thành một nơi giáo dục truyền thống cách mạng có tính “trực quan, sinh động” cao bởi hệ thống hiện vật phong phú cùng với các nhân chứng lịch sử. Đồng chí Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước - một cựu tù ở Phú Quốc cũng đã không ít lần về bảo tàng và đánh giá cao giá trị của các hiện vật, việc làm ý nghĩa của các cựu chiến binh, cựu tù binh ở đây. Nhiều người khi đến thăm bảo tàng đã xúc động ghi lại những cảm nghĩ của mình trước những hiện vật thấm đầy máu và nước mắt tại bảo tàng. Bà Tô Thị Lan quê ở Nha Trang, Khánh Hòa, cựu tù nhân Phú Quốc xúc động viết: “Tôi là một nữ tù bị đày ở Phú Quốc, được xem lại hiện vật trưng bày vụ sát hại 148 tù binh ngày 6-5-1972, tôi vô cùng phẫn uất. Khi nhìn lại các chứng tích, dụng cụ tra tấn tù binh, tôi càng cảm thông với đồng đội của mình cùng chung cảnh ngộ, cảm ơn các anh đã sưu tầm những hiện vật quý giá để giữ lại cho chúng tôi - những người đã bị tù đày hồi tưởng lại những ngày ở “địa ngục trần gian”…”. Tháng 8 vừa qua, bà An-na Ma-ri-a San-vi-ni, cán bộ Đại sứ quán I-ta-li-a tại Phi-líp-pin đến thăm bảo tàng đã xúc động bày tỏ: “Tôi biết ít nhiều về lịch sử Việt Nam, nhưng được gặp và sống, trải nghiệm với những nhân chứng sống của lịch sử đối với tôi là lần đầu tiên. Đây là một bảo tàng mà ở đó người ta kể về những cái chết, tất cả những bạo lực dã man, nhưng vượt lên trên hết đây là một nơi cái sống sẽ chiến thắng cái chết. Và những người đã sống sót vẫn giữ mãi ký ức về đồng đội, những người đã hy sinh và đó là bài học về chiến tranh không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà cho cả nhân loại”. Ông Trần Tú Viên, một khách du lịch Trung Quốc thì cho rằng “nơi này là một nơi dạy hiếu, dạy lòng trung thành thật tốt…”. Nhiều em học sinh khi đến thăm bảo tàng đã bày tỏ sự xúc động và cảm kích của mình trước tinh thần đấu tranh bất khuất của các chiến sĩ cách mạng trước tội ác man rợ của kẻ thù.

Từ khi lập ra cho tới nay, bảo tàng luôn hoạt động theo 4 nguyên tắc: Tự nguyện, tự túc, tự quản và tự chịu trách nhiệm, không hề có một khoản kinh phí nào của Nhà nước. Hằng ngày, các ông thay phiên nhau đến trông nom bảo tàng, họ tự nguyện phân công nhau quét dọn, lau chùi, bảo quản các hiện vật của đồng đội mình trong khu trưng bày và thuyết minh, hướng dẫn khách đến thăm. Tuy đã mất khá nhiều công sức, tiền bạc nhưng vì số lượng hiện vật khá lớn, đa dạng trong khi các ông không ai có nghiệp vụ về bảo tàng, nên việc trưng bày, bảo quản ở nhiều khu vực chưa hợp lý; một số tranh ảnh, hiện vật có hiện tượng hư hỏng, xuống cấp. Ông Lâm Văn Bảng, Giám đốc Bảo tàng tâm sự: “Khi tôi và anh em có ý nghĩ thành lập bảo tàng với mong muốn đem những hiện vật biết nói này đến với mọi người, nhất là thế hệ trẻ, mong muốn thắp lên ngọn lửa truyền thống đã tiềm ẩn trong họ. Tuy nhiên, kinh phí để đi lại, bảo quản, sưu tầm thêm những hiện vật mới lại hoàn toàn phải tự túc trong khi đời sống của anh em chủ yếu dựa vào khoản lương hưu nên gặp rất nhiều khó khăn...”.

Thấu hiểu những khó khăn của bảo tàng, từ những năm 2010-2012, Thành phố Hà Nội đã hỗ trợ bảo tàng 179 triệu đồng. Đồng chí Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội kiến nghị nâng cấp Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày thành Bảo tàng Nhà nước. Nhưng quá trình hoàn thành các thủ tục cần có thời gian, trong khi chờ đợi, đồng chí Phạm Quang Nghị có ý kiến chỉ đạo Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch cùng các cơ quan, ban, ngành thành phố tạo mọi điều kiện giúp đỡ bảo tàng.

Huyện Phú Xuyên cũng hỗ trợ bảo tàng 200 triệu đồng để xây dựng và cải tạo lại phòng 7 bị sụt lún và hỏng mái, đồng thời thường xuyên tổ chức cho các trường học thay nhau đến lau chùi, quét dọn giúp các bác trong bảo tàng. Trao đổi với lãnh đạo huyện, chúng tôi được biết, năm 2011, huyện Phú Xuyên đề nghị thành phố cấp 3ha đất khu qua đường cao tốc (Pháp Vân) và đã có kinh phí khảo sát thiết kế với số tiền khoảng 300 triệu đồng, nhưng hiện nay còn chờ thành phố quy hoạch cụ thể...

Chúng tôi cho rằng, việc tu sửa và nâng cấp Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày đã và đang hoạt động rất hiệu quả là một điều rất thiết thực và cần thiết để giáo dục thế hệ trẻ. Về lâu dài cần phải có đội ngũ quản lý, khai thác và hướng dẫn khách tham quan bảo tàng một cách chuyên nghiệp. Vì vậy, cần sớm đưa Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày vào hệ thống bảo tàng của Nhà nước và có sự đầu tư thỏa đáng thì mới có thể giữ được truyền thống cho các thế hệ mai sau...

Theo Quý Hoàng - Nguyệt Anh/ QĐND