- Giấy phép "cha", giấy phép "con", giấy phép "cháu" - ba thế hệ giấy phép đang đè nặng lên doanh nghiệp. Nhưng thực tế, theo TS. Lê Đăng Doanh, đây lại là miếng đất màu mỡ để chỗ này, chỗ kia gây phiền hà cho doanh nghiệp, kiếm thu nhập.  Phải chăng, mọi lý chậm bỏ một số giấy phép con không cần thiết cũng chỉ vì cái 'phong bì".

Gánh nặng ba thế hệ giấy phép

Tháng 11, Chính phủ sẽ trình Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi với một danh sách hợp lý nhất các ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Thế nhưng, cuộc họp mới đây của Hội đồng rà soát các ngành nghề cho thấy vẫn còn ngổn ngang rất nhiều vấn đề cần xử lý.

Ông Phan Đức Hiếu, Phó Trưởng ban môi trường kinh doanh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, chia sẻ: "Rất nhiều điều kiện kinh doanh đặt ra là không cần thiết, không hợp lý, không rõ ràng, cụ thể".

Ông dẫn chứng: "Ở dịch vụ việc làm, doanh nghiệp muốn kinh doanh ngành này phải đáp ứng điều kiện có kinh nghiệm 3 năm, bộ máy nhân sự chuyên trách phải có ít nhất 3 nhân viên có trình độ cao đẳng, rồi phải nộp tiền ký quỹ tới 300 triệu đồng tại ngân hàng".

{keywords}
DN khốn khổ với các loại giấy phép (ảnh P.H)

"Trên thực tế, không cho doanh nghiệp làm thì lấy đâu ra kinh nghiệm 3 năm? Việc ra điều kiện về trình độ nhân sự cũng vậy, sẽ hạn chế những sáng kiến giao dịch, tuyển dụng việc làm trên mạng", ông Hiếu phân tích.

Trong ngành vận tải, ông Hiếu cho hay, quy định phải có 5 đầu xe mới được kinh doanh là một cách áp đặt phương thức kinh doanh cứng nhắc. "Nếu tôi chỉ có 4 xe taxi, nhưng tôi không được kinh doanh thì chắc chỉ còn cách kinh doanh taxi dù. Nếu tôi có 1 xe nhưng vẫn đảm bảo dịch vụ chất lượng thì vẫn tốt chứ", ông Hiếu lập luận.

Đặc biệt, tình trạng "giấy của giấy", điều kiện của điều kiện vẫn tồn tại lâu nay. Sau hàng loạt các giấy chứng nhận, chứng chỉ... , doanh nghiệp phải nộp thêm một loại giấy là Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh này là không cần thiết, ông Hiếu cho biết.

Chính những điều kiện không hợp lý đó đã tạo ra gánh nặng thủ tục hành chính không cần thiết, tạo ra rào cản gia nhập thị trường.

Chưa kể, nhiều điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể, không thống nhất cách hiểu và không tiên liệu trước. Phổ biến nhất là các kiểu điều kiện "phải phù hợp quy hoạch, phải có đủ trang thiết bị, có phương án kinh doanh khả thi, có đủ khả năng tài chính".

Vì không có một tiêu chuẩn, nguyên tắc chung về tên gọi, đến nay, chính các thành viên của Hội đồng rà soát cũng chưa chắc chắn về con số thống kê.

Ông Hiếu nói: "Sau khi xác minh từ các bộ ngành, chúng tôi đã đếm được 398 ngành nghề kinh doanh có điều kiện và đang dự kiến đề nghị bãi bỏ 33 ngành".

Theo nghiên cứu của chuyên gia độc lập Lê Duy Bình, trong số trên, Bộ Công Thương vô địch nhất về việc ra các điều kiện gia nhập thị trường, với 68 ngành nghề có điều kiện. Đứng thứ hai là Bộ NN-PTNT, kế đến là Bộ GTVT, Ngân hàng Nhà nước... Đứng cuối bảng này là Bộ KH-ĐT.

Ông Bình cho biết, có tới 895 điều kiện kinh doanh cấp 1, chính là giấy phép “cha”, 2.129 điều kiện cấp 2, là giấy phép “con” và 1.745 điều kiện cấp 3, là giấy phép “cháu”.

Tuy nhiên, ông Bùi Anh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Đăng ký doanh nghiệp, Bộ KH-ĐT, lại cho rằng: "Con số trên là cũ rồi. Chúng tôi cập nhật đã có 413 ngành nghề kinh doanh có điều kiện và có thêm 12 ngành nữa đang được các bộ bổ sung, tức sẽ có tới 425 ngành".

{keywords}

TS. Lê Đăng Doanh: "Thực tế, giấy phép là một miếng đất màu mỡ để chỗ này, chỗ kia gây phiền hà cho doanh nghiệp, kiếm thu nhập.

Cắt bỏ hay giữ lại: Đều cần thận trọng

Theo tổ rà soát, nguyên tắc sàng lọc lớn nhất là chỉ nên giữ lại ngành nghề thực sự cần thiết phải có tiền kiểm và hậu kiểm, như các ngành liên quan đến sứa khoẻ... Bên cạnh đó, cần chuyển phương thức quản lý bằng điều kiện kinh doanh sang quản lý theo kết quả, chỉ quy định tiêu chuẩn... để doanh nghiệp tự xây dựng theo và áp dụng.

Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Đặng Huy Đông bày tỏ: "Không có nghĩa là bớt đi nhiều là thành công nhiều, bớt đi ít thì thành công ít. Số lượng ít hay nhiều không phải là vấn đề chính mà điều quan trọng hơn của cuộc rà soát là các quy định này phải hợp lý, giúp cho Nhà nước kiến tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động".

Ông Đông cũng dẫn ra ví dụ cho thấy, nhiều điều kiện kinh doanh đặt ra là có cơ sở.

Đơn cử như trong lĩnh vực đào tạo, tư vấn đấu thầu, Thứ trưởng Đông kể: "Có trường hợp DNNN cổ phần hoá, tôi phát hiện ra doanh nghiệp này có mảnh đất ở vị trí ngay cạnh hồ Trúc Bạch, đường Trấn Vũ, nhưng năm 2009, tư vấn định giá chỉ có 45 triệu đồng/m2. Thời điểm đó giá bất động sản đang nóng, lẽ ra, giá phải cao hơn nhiều".

Một câu chuyện khác được ông nêu trong xây dựng: "Tư vấn đưa ra đơn giá tiền FS là cộng trừ 40%. Không hiểu tư vấn này kiểu gì là dự phòng lớn như vậy, trong khi trên thế giới, dự phòng tiền FS chỉ cộng trừ 10-15%, FS cộng trừ 5%".

"Rõ ràng, nếu anh không có trình độ kiến thức thì anh tư vấn kiểu gì, nhất là trong mua sắm công, trong xây dựng công trình, vốn Nhà nước phải sử dụng hiệu quả nhất. Nếu bỏ đi, cho phép ai cũng có thể tư vấn được thì nguy hiểm", ông Đông nói.

TS. Lê Đăng Doanh bình luận: "Thực tế, giấy phép là một miếng đất màu mỡ để chỗ này, chỗ kia gây phiền hà cho doanh nghiệp, kiếm thu nhập. Ta lấy lý lẽ gì để bảo các nơi bỏ giấy phép đi?"

"Nhóm soạn thảo phải làm rõ các phương pháp luận, căn cứ thực tiễn cho các đề xuất sàng lọc này để thuyết phục được Quốc hội, Chính phủ và các bộ bỏ giấy phép. Trong đó, căn cứ lớn nhất là bảo vệ được lợi ích cộng đồng", ông Doanh kiến nghị.

Phạm Huyền