Các nhà độc tài nhìn một cách không mấy thiện cảm đối với sự khao khát quyền lực chính trị của những công dân nước mình, nhưng các nền dân chủ lại coi việc tham gia tích cực vào việc cạnh tranh quyền lực chính trị là một nghĩa vụ công dân.
>>Khi quyền lực chính trị nhường chỗ cho quyền lực quân sự
Sự suy giảm của quyền lực chính trị
Khát vọng quyền lực trở thành một nhân tố đặc trưng của chính trị quốc tế, vì trong mọi hình thái chính trị, chính trị quốc tế cần thiết phải là thứ chính trị quyền lực. Trong khi sự thật này nhìn chung được thừa nhận trong thực tiễn ngoại giao quốc tế, thì nó lại thường bị chối bỏ trong các tuyên bố của giới học giả, các nhà tuyên truyền và kể cả các chính trị gia.
Từ khi các cuộc chiến tranh của Napoleon kết thúc, càng có nhiều nhóm ở thế giới phương Tây tin rằng cuộc chiến giành quyền lực trên trường quốc tế chỉ là một hiện tượng tạm thời, một sự cố lịch sử vốn chắc chắn sẽ biến mất một khi những điều kiện lịch sử đặc biệt tạo nên chúng bị xóa bỏ. Do đó, Jeremy Bentham tin rằng sự tranh giành thuộc địa chính là căn nguyên cho mọi xung đột quốc tế. “Hãy giải phóng các thuộc địa của các ngài đi!” là lời khuyên của ông giành cho các chính phủ, và các cuộc chiến tranh cũng như xung đột quốc tế chắc chắn sẽ biến mất.[4]
Những người ủng hộ thương mại tự do, như Cobden[5] và Proudhon[6], đã bị thuyết phục rằng việc dỡ bỏ các rào cản thương mại là điều kiện duy nhất để xác lập sự hoà hợp vĩnh cửu giữa các quốc gia và thậm chí còn có thể dẫn đến sự biến mất hoàn toàn của chính trị quốc tế. “Ở một số cuộc bầu cử trong tương lai”, Cobden nói, “chúng ta có thể dễ dàng thấy bài kiểm tra “không còn chính trị quốc tế” sẽ được áp dụng với những người đề nghị được trở thành đại diện cho các nhóm cử tri tự do”[7].
Đối với Mác và những người ủng hộ ông, chủ nghĩa tư bản chính là căn nguyên của chiến tranh và sự chia rẽ quốc tế. Họ cho rằng chủ nghĩa xã hội quốc tế sẽ xoá bỏ sự đấu tranh quyền lực trong chính trị quốc tế và đem lại hòa bình vĩnh viễn.
Trong suốt thế kỉ XIX, những người theo chủ nghĩa tự do ở mọi nơi chia sẻ niềm tin rằng chính trị quyền lực và chiến tranh là tàn dư của một hệ thống cai trị lỗi thời và với chiến thắng của chế độ dân chủ và các chính phủ dựa trên hiến pháp đối với chính thể toàn trị và độc tài, sự hòa hợp quốc tế và nền hoà bình vĩnh cửu sẽ đánh bại chính trị quyền lực và chiến tranh. Trong trường phái tư tưởng tự do này, Woodrow Wilson chính là chính trị gia có tài hùng biện và có sức ảnh hưởng nhất.
Trong thời gian gần đây, niềm tin rằng sự tranh giành quyền lực có thể bị xoá bỏ khỏi chính trường quốc tế đã được kết hợp với các nỗ lực to lớn trong việc tổ chức lại thế giới, như là Hội Quốc Liên và Liên Hợp Quốc. Do vậy Cordell Hull, lúc đó là Ngoại trưởng, đã tuyên bố vào năm 1943 khi trở về từ Hội nghị Matxcơva, sự kiện đặt nền móng cho Liên Hợp Quốc, rằng tổ chức quốc tế mới này đồng nghĩa với việc chấm dứt chính trị cường quyền và mở ra một thời đại mới của hợp tác quốc tế.[8]
Philip Noel-Baker, khi đó là Quốc vụ khanh Anh, vào năm 1946 đã tuyên bố trước Hạ viện rằng chính phủ Anh đã “quyết tâm sử dụng các thể chế của Liên Hợp Quốc để xoá bỏ chính trị cường quyền, để thông qua thể chế dân chủ giúp cho ý chí người dân sẽ có vị trí thống lĩnh.”[9]
Dù chúng ta còn nhiều chuyện phải bàn đến sau này về những lý thuyết này cũng như những kì vọng mà chúng mang lại,[10] không quá để cho rằng sự tranh giành quyền lực rất phổ quát cả về không gian và thời gian và là một sự thật không thể chối cãi. Không thể phủ nhận rằng trong suốt lịch sử, bất chấp những điều kiện về chính trị, kinh tế và xã hội, các quốc gia đã đụng đầu nhau trong cuộc chiến về quyền lực.
Mặc dù các nhà nhân chủng học chỉ ra rằng một số tộc người nguyên thủy nhất định dường như không bị ham muốn quyền lực chi phối, chưa ai từng cho thấy cách thức tái tạo lại tình trạng tư duy cũng như các điều kiện sống của họ trên một phạm vi toàn cầu mà qua đó có thể xóa bỏ được sự tranh giành quyền lực khỏi đời sống quốc tế.[11]
Sẽ là vô ích và thậm chí là tự phá huỷ mình khi giải thoát dân tộc nào đó trên trái đất khỏi sự đam mê quyền lực trong khi vẫn để ham muốn đó tiếp tục tồn tại với những dân tộc khác. Nếu sự khao khát quyền lực không thể bị xoá bỏ trên toàn thế giới, những người thoát khỏi chúng có thể sẽ trở thành nạn nhân đối với quyền lực của những người khác.
Quan điểm này có thể bị phê phán trên cơ sở rằng những kết luận rút ra từ quá khứ là không thuyết phục và rằng việc đưa ra những kết luận như vậy luôn là chiêu thức của những kẻ chống lại sự tiến bộ và cải cách. Mặc dù sự thật là một số thể chế và dàn xếp xã hội đã luôn tồn tại trong quá khứ, nhưng không nhất thiết có nghĩa là chúng sẽ tiếp tục tồn tại trong tương lai.
Tuy nhiên, tình huống lại trở nên khác biệt khi chúng ta không phải đang xem xét các thể chế và dàn xếp xã hội tạo ra bởi con người, mà xem xét những nhân tố tâm sinh lý mà thông qua đó dần dần xã hội được tạo nên. Khao khát được sống, duy trì nòi giống, và áp đảo người khác là lẽ thường đối với mọi con người[12]. Sức mạnh tương đối của các khát khao đó phụ thuộc vào các điều kiện xã hội – những thứ có thể phù hợp với một khát khao nào đó nhưng có xu hướng kìm hãm những khát khao khác, hoặc là những thứ có thể ngăn cản sự chấp thuận của xã hội đối với những biểu hiện nhất định của những khát khao này, trong khi lại khuyến khích những cái khác.
Do vậy, nếu lấy ví dụ chỉ trong khía cạnh quyền lực, hầu hết mọi xã hội lên án việc giết chóc như là một phương tiện để đạt được quyền lực trong xã hội, nhưng mọi xã hội lại khuyến khích việc tiêu diệt kẻ thù trong cuộc chiến giành quyền lực được gọi là chiến tranh. Các nhà độc tài nhìn một cách không mấy thiện cảm đối với sự khao khát quyền lực chính trị của những công dân nước mình, nhưng các nền dân chủ lại coi việc tham gia tích cực vào việc cạnh tranh quyền lực chính trị là một nghĩa vụ công dân.
Khi tồn tại một cách thức tổ chức các hoạt động kinh tế theo hình thức độc quyền thì sẽ không có sự cạnh tranh để giành quyền lực kinh tế; và trong các hệ thống kinh tế cạnh tranh, những biểu hiện nhất định của việc tranh giành quyền lực kinh tế bị đặt ngoài vòng pháp luật, trong khi một số khác lại được khuyến khích.
Tuy nhiên, không kể đến những điều kiện xã hội nhất định, sự phản bác quan trọng nhất đối với ý kiến cho rằng cuộc chiến quyền lực trong chính trị quốc tế chỉ là một sự cố lịch sử lại xuất phát từ bản chất của nền chính trị trong nước. Bản chất của chính trị quốc tế là đồng nhất với bản chất chính trị trong nước. Chính trị trong nước và quốc tế đều là những sự tranh giành quyền lực, chỉ khác nhau bởi những điều kiện mà tại đó sự tranh giành diễn ra –bối cảnh trong nước hay không gian quốc tế.
Đặc biệt, khao khát chiếm ưu thế vượt trội là nhân tố cấu thành của mọi sự liên kết giữa con người, từ gia đình thông qua những mối liên kết thân hữu anh em hoặc quan hệ nghề nghiệp, và từ những tổ chức chính trị địa phương cho tới cấp quốc gia.
Ở cấp độ gia đình, bản chất của mâu thuẫn điển hình giữa mẹ chồng/vợ và con dâu/rể nằm trong việc tranh giành quyền lực, sự bảo vệ một vị trí quyền lực đã được xác lập đối với nỗ lực hình thành một vị trí quyền lực mới. Do vậy, mối quan hệ này có thể dự đoán về xung đột trên trường quốc tế giữa chính sách của cường quốc đang áp đảo nguyên trạng và đế quốc đang trỗi dậy. Các nhóm xã hội, nhóm thân hữu, các khoa trường và các tổ chức kinh doanh đều là bối cảnh của sự ganh đua quyền lực liên tục giữa các nhóm vốn hoặc cố gắng duy trì quyền lực hiện có hoặc khao khát chiếm đoạt quyền lực lớn hơn.
Cuộc ganh đua giữa các công ty cũng như tranh chấp giữa người lao động và nhà tuyển dụng thường xuyên diễn ra không chỉ vì, và đôi khi không phải phải chủ yếu bởi, các lợi ích kinh tế, mà còn vì sự ảnh hưởng đối với đối thủ và với các cá nhân và nhóm người khác, hay nói cách khác là quyền lực. Cuối cùng, toàn bộ đời sống chính trị của một quốc gia, đặc biệt là đối với những quốc gia dân chủ, từ cấp độ địa phương cho tới cấp độ quốc gia, là một sự tranh giành quyền lực liên tục.
Trong các giai đoạn tranh cử, bầu cử hội đồng lập pháp, trong các vụ tranh tụng trước toà, những quyết định hành chính và phương thức thực thi – trong tất cả các hoạt động này con người đều cố gắng duy trì hoặc thiết lập quyền lực của mình lên người khác. Quy trình mà các quyết định lập pháp, xét xử, điều hành và hành chính được đưa ra đều chịu tác động bởi các áp lực và phản áp lực của các “nhóm lợi ích” – vốn cố gắng bảo vệ và gia tăng vị thế quyền lực của họ.
Nếu xét đến sự tồn tại rộng khắp của tranh giành quyền lực trong tất cả các mối quan hệ xã hội và mọi các cấp độ tổ chức xã hội, có ngạc nhiên không khi chính trị quốc tế tất yếu chính là chính trị quyền lực? Và chẳng phải đáng ngạc nhiên hơn nếu xem sự tranh giành quyền lực chỉ là ngẫu nhiên và là một thuộc tính không bền vững của chính trị quốc tế trong khi nó lại là một nhân tố thường xuyên và cần thiết của tất cả mọi nhánh hoạt động của chính trị trong nước?
Kì cuối: Nguồn gốc làm suy giảm quyền lực
Biên dịch: Võ Hoàng Phương Nhung; Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Bài được đăng lại từ Nghiencuuquocte.net
---------------------------------
Chú thích:
[4] Emancipate Your Colonies (London: Robert Heward,1830)
[5]“Thương mại tự do! Đó là gì? Tại sao lại phá dỡ nhừng hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia: những hàng rào đó, nép mình đằng sau chúng là những cảm xúc của sự kiêu hãnh, báo thù, long căm hờn và cả sự ghen tỵ, những thứ mà sẽ đôi khi bùng nổ ra ngoài ranh giới của họ và nhần chìm toàn bộ các quốc gia trong biển máu.”; “Thương mại tự do là luật quốc tế của Đấng Vạn Năng”, và thương mại tự do và hoà bình được xem như là “một và cùng một nguyên nhân”. Xem Speeches by Richard Cobden (London, The Macmillan Company,1870), I, 79: Political Writings (New York: D Appleton and Company, 1867), II, 110; Thư đề ngày 12/4/1842 gửi Henry Ashworth, được trích trong John Morley, Life of Richard Cobden (Boston: Roberts Brothers, 1881), p.154.
[6] “Chúng ta hãy xóa bỏ hàng rào thuế quan, và liên minh giữa mọi dân tộc do vậy sẽ được thiết lập, sự đoàn kết của họ được công nhận, và sự bình đẳng được tuyên bố ra đời.” – Oeuvres complète (Paris, 1876), I, 248.
[7] Trích trong A,C,F. Beales, A Short History of English Liberalism, p.195
[8] New York Times, November 19, 1943, p,I.
[9] House of Commons Debates (Fifth Series, 1946), Vol 419 p 1262.
[10] Xem phần VIII
[11] Để biết những tranh luận hữu ích về vấn đề này, xem Malcom Sharp “Aggression: A study of Values and Law”, Ethics, Vol. 57, No.4, Part II (July 1947).
[12] Các nhà động vật học chỉ ra rằng ham muốn áp đảo đồng loại được cho là có cả trong giới động vật, như là gà hoặc khỉ, những giống loài tạo ra sự phân cấp xã hội dựa trên nền tảng của ý chí và khả năng thống trị đồng loại. Ví dụ, xem Warder Allee, Animal Life and Social Growth (Baltimore: The Williams and Wilkins Company, 1932) và The Social Life of Animals (New York: W. W.Norton and Company, Inc, 1938).