Bài và ảnh phản ánh những giây phút giải phóng đầu tiên ở Sài Gòn được chuyển bằng chuyến máy bay đầu tiên từ Đà Nẵng ra Hà Nội.

LTS: Khởi đầu bằng phóng viên Thông tấn quân sự năm 1972, rồi phóng viên báo Nhân Dân, nghỉ hưu ở cương vị Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình,  nay vẫn tháp tùng Chủ tịch nước ở vai trò ký giả;  là nhà báo đầu tiên có mặt ở Dinh Độc lập vào trưa 30-4-1975. Ông là TS Đậu Ngọc Đản (Ngọc Đản) có một cuộc đời làm báo hết sức phong phú.

Ông chia sẻ với Tuần Việt Nam.

Tôi có mặt vào thời khắc lịch sử

Con đường nào - ngẫu nhiên hay tất yếu, đưa ông đến với Thông tấn quân sự, với nghề báo?

Năm 1969, tốt nghiệp lớp 10, tôi được tuyển vào Đại học Thủy sản (thời kỳ đó còn tuyển, năm sau, năm 1970 mới phải thi). Nhưng báo Hà Tĩnh lại giới thiệu tôi đi học Đại học báo chí. Duyên do, là học sinh giỏi văn từ nhỏ, tôi thường xuyên đặt báo và tập viết báo, có bài đăng trên báo Nhân Dân viết về một ông bưu điện xã, bài viết về tấm gương của một cô vợ bộ đội giỏi việc nước đảm việc nhà được giải nhì của báo Hà Tĩnh.

Vào trường, Tổng cục Chính trị chọn trong 7 lớp (lúc đó gọi là chi) báo chí, xuất bản được 53 người vào lớp phóng viên chiến trường, gọi là lớp phóng viên tiền phương. Đang học năm thứ 3, năm 1972, chúng tôi được phiên chế thành đại đội 28 (28-2-1972) và tất cả được tung vào Quảng Trị. Tôi được cắm vào trung đoàn 36, sư 308. Cuộc đời phóng viên chiến tranh bắt đầu từ đó.

Cô Nhíp - chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên dẫn đường cho xe tăng  ta tiến vào Sài Gòn năm 1975 là một bức ảnh lịch sử, có hàm lượng thông tin rất lớn, vừa nói được sự thần tốc, tính chất toàn dân, toàn diện... của cuộc kháng chiến. Ông có thể kể thêm về bức ảnh này và cô Nhíp?

Tháng 2/1975 tôi được lệnh vào Nam, theo bước các binh đoàn trong cuộc Tổng tiến công, nổi dậy. 26-3 có mặt ở Huế. Đi xe Honda vượt Hải Vân, 29-3 có mặt ở Đà Nẵng, 29-4 đến Xuân Lộc gặp Cục trưởng Cục Văn hóa Hồng Cư, Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu, được các ông trực tiếp giao nhiệm vụ đi ngay vào Sài Gòn, theo trung đoàn 66 của 304 rồi gặp và bám xe tăng thứ tư của Lữ đoàn 203, đánh nhau ác liệt ở cầu Sài Gòn...  Tiến thẳng vào dinh Độc Lập, chứng kiến và chụp được ảnh Phạm Xuân Thệ, đại úy, trung đoàn phó, bước lên nhận sự đầu hàng của chính quyền Sài Gòn.

{keywords}
Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Ảnh: Nguyễn SĨ Đại

Tôi và anh Hoàng Thiểm, quê Hà Giang, cùng TTQS là hai nhà báo đầu tiên của miền Bắc có mặt tại dinh Độc Lập vào giây phút lịch sử ấy, đúng vào 11h30 phút ngày 30-4.

Tôi gặp cô Nhíp ở Tân Sơn Nhất. Thấy xe tăng cắm cờ Quân giải phóng, lại có cô gái đẹp, vừa hiền dịu, vừa hiên ngang. Hỏi, được biết là xe tăng Quân đoàn 3, cô gái tên là Cao Thị Nhíp, tên hoạt động NguyễnTrung Kiên. Nhíp con nhà nghèo, quê Tiền Giang, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, tham gia biệt động thành dưới vỏ bọc là người làm công cho gia đình một sĩ quan ngụy. Vốn thông thuộc đường sá, Nhíp đã dẫn đường cho xe tăng ta vào đánh Tân Sơn Nhất và các vị trí quân sự khác.

Đúng như anh đã nhận định về bức ảnh, khi gặp cô Nhíp bên xe tăng, tôi đã bị cái đẹp cuốn hút, cảm giác ngay rằng đây là một hình tượng. Hình tượng của tổng tiến công (quân chủ lực) và nổi dậy (nhân dân). Hình tượng Việt Nam: Nụ cười tươi sáng, hiền dịu, yêu hòa bình nhưng kiên cường gan góc, quyết thắng. Trong tư thế chiến thắng, toát lên sự nhân hậu, vị tha...

Ô tô, máy bay chở.. một bài báo

Tôi được biết, ông đã "điều" một sĩ quan ngụy lái xe chở ông từ Sài Gòn ra Huế để chuyển bài vở ra Bắc. Có thể coi đó là một "mẹo", một kỹ thuật nghiệp vụ?

Trong trưa 30-4 ấy, từ dinh Độc Lập tôi không đi về Đài phát thanh, mà tìm cách chuyển bài vở nhanh ra Bắc. Trong sân, rất nhiều nhân viên, tùy tùng của chính phủ Sài Gòn đứng đợi. Tôi nói to, dõng dạc: "Chúng tôi là phóng viên ở miền Bắc vào. Đây là thời cơ lập công của các ông. Ai có thể chở chúng tôi đưa tài liệu ra Hà Nội"? Năm sáu cánh tay giơ lên. Tôi chỉ vào một người. Đó chính là Võ Cự Long, sĩ quan lái xe dẫn đường của nội các Sài Gòn.

Theo yêu cầu của chúng tôi, Long chở tôi và phóng viên Hoàng Thiểm đến Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu Ngụy và sân bay Tân Sơn Nhất rồi thẳng ra Đà Nẵng. Bài và ảnh phản ánh những giây phút giải phóng đầu tiên ở Sài Gòn của chúng tôi được chuyển bằng chuyến máy bay đầu tiên từ Đà Nẵng ra Hà Nội.

Phản ứng nghề nghiệp ấy trước hết là do tính cấp bách, trọng đại của công việc, phải tìm mọi cách, dù nguy hiểm, hy sinh, nhưng phải chuyển được tài liệu về cơ quan nhanh nhất. Có thể giải thích thêm, vào thời điểm đó, các phương tiện thông tin của ta còn lạc hậu, của Ngụy thì đã bị cắt đứt, chưa khôi phục được; nên chuyển một tấm ảnh cũng kỳ công, tốn kém đến như vậy.

 

{keywords}
  Bức ảnh Cô Nhíp. Tác giả: Đậu Ngọc Đản

Là tác giả nhiều bài viết trận chiến sĩ hải quân ta chống trả quân Trung Quốc xâm chiếm đảo Gạc Ma. Ngoài kinh nghiệm tác nghiệp chiến trường, điều gì nữa giúp cho ông có được sự "độc quyền" này?

Lại một tình cờ, ngẫu nhiên nữa. Đầu tháng 3/1988, tôi khi đó là phóng viên của báo Nhân Dân được cử đi công tác Trường Sa cùng bộ đội hải quân. Chuyến đi  xuất phát tại quân cảng Cam Ranh. Đến phút chót,  có lệnh: Các sĩ quan và chiến sĩ trên chuyến tàu ra đảo Sinh Tồn, Len Đao, Gạc Ma sẽ chốt giữ lại trên đảo dài ngày, tàu không quay lại đất liền như dự định. Đương nhiên tôi bị gạt lại, chờ chuyến khác.

Rồi chiến sự nổ ra vào ngày 14 - 3. Nhờ vị thế báo Nhân Dân, và máu nghề, tôi được nghe thông tin chiến sự trong giao ban, lăn lộn lắng nghe phản ứng và tình cảm của dân chúng.

Căm phẫn trước hành động chiếm đóng trái phép của quân đội Trung Quốc, mong mỏi thông tin cho cả nước biết; liên tiếp các ngày  đó tôi thức viết liên tục và gửi về tòa soạn hàng chục bài báo  và được đăng kịp thời như "Trường Sa trong lòng hậu phương Phú Khánh" (22-3) ; "Cuộc tiến công bằng tàu khu trục mang tên lửa của Trung Quốc vào ba tàu vận tải không có vũ khí tiến công của ta ở vùng đảo Sinh Tồn" (24-3). Rồi các bài kể về sự hy sinh của thiếu úy Trần Văn Phương trên đảo Gạc Ma.

Lúc này, tôi đã có một một nhận thức mới, sâu sắc hơn về biển đảo: Rằng, từ đây Tổ quốc ở trên đầu ngọn sóng, rằng, chúng ta đang phải đối mặt với một âm mưu bành trướng không chấm dứt.

Theo ông, làm báo bây giờ có khó hơn trước không, thưa ông? Điều gì cần nhất hay là một nguyên tắc tóm lược cho nghề báo?

Nghề báo là một nghề cao quý, hấp dẫn. Tôi cảm nhận được sự cao quý này lần đầu tiên khi nhận giải báo Hà Tĩnh. Chỉ là một đứa trẻ con, vì bài báo mà cả xã, cả huyện biết đến và ai cũng tôn trọng. Tôi chợt nhận ra và ghi nhớ suốt đời: mình trân trọng cuộc đời, vì người khác, sẽ được mọi người trân trọng.

Nghề báo là một nghề hay vì được đi nhiều, nghe nhiều do đó học được nhiều; và bắt phải không ngừng học hỏi để tiến mãi, nhất là học trong cuộc sống, học để sống. Làm báo không muốn mới cũng phải mới, nên được và phải làm mới mình liên tục. Khi bài báo viết xong, trước mắt lại là một tờ giấy trắng, lại "về mo", cái đầu cũng trắng. Ngày mới, đề tài mới, lại bắt đầu lại từ đầu...

Nghề báo hay vì có nhiều bạn, bạn đủ các giới.

Nghề báo hay vì nói được tiếng nói của dân, có khi đại diện được cho họ - tức là con người mình được nhân lên; được dân tin mến, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ; ở nơi nào cũng được tôn trọng.

Và khi đã là nhà báo, dù không chức vụ gì, anh vẫn được người ta nhớ, vẫn làm việc mãi. Khi nghỉ hưu, có nhiều từng trải hơn, ngọn bút càng điềm đạm, nhuận sắc, thấm thía tình đời, nhân ái hơn.

Còn về nguyên tắc cho nghề báo, tôi không phải là nhà lý luận, tôi chỉ nói quan niệm của tôi thôi: Đó là đam mê, có ước vọng cống hiến, có niềm tin chân lý và chiến đấu để bảo vệ nó, không lung lạc trước mọi cám dỗ, quyền lợi trái ngược với đạo lý.

Làm báo là làm chính trị nhưng không lợi dụng nó để mưu cầu lợi ích riêng từ hoạt động chính trị... Và phải đọc, phải học suốt đời; có kiến thức mới, có biết bạn đọc cần gì mới có thể cống hiến được chứ không chỉ có tấm lòng, lý tưởng.

Xin cảm ơn ông!

Nguyễn Sĩ Đại (Thực hiện)