Giữa vùng kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào cây trồng, trông thật trù phú xanh ngát như Tây Nguyên. Nhiều tỷ phú, tấm gương làm giàu đã nổi lên từ vùng đất này, tuy nhiên vẫn có những khu vực, những con người chưa được như vậy.
Kỳ 1: Gỡ khó cho nông dân vùng nghèo
Mời độc giả xem phóng sự bằng hình ảnh:
Khi nói đến Tây Nguyên, vùng đất gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak, Đak Nông và Lâm Đồng, người ta thường nhớ ngay đến những “núi rừng đại ngàn” “cao nguyên hùng vĩ” “trường ca Đam San” như từ trong những bài hát gắn liền với tên tuổi nghệ sĩ Y Moan. Nhưng Tây Nguyên hiện ra trong mắt tôi không có những cánh rừng đại ngàn… mà là những ngôi nhà bê tông xen lẫn nhà sàn và màu xanh ngút ngàn của những đồi cà phê, hồ tiêu, điều, sắn, ngô…
Là một trong bảy vùng kinh tế - sinh thái của Việt Nam hiện nay, kinh tế chính của Tây Nguyên gắn liền với sản phẩm nông nghiệp, cây trồng. Đương nhiên, mối quan tâm, sinh kế của con người ở đây gắn liền với các vấn đề như cây giống, phân bón, kỹ thuật canh tác, giá nông sản…
Sau ngày miền Nam giải phóng (1975), Nhà nước có nhiều chính sách phát triển sản xuất, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; đồng thời thực hiện chủ trương chuyển một bộ phận dân cư và lao động từ các vùng đông dân của đất nước đến xây dựng kinh tế mới. Tây Nguyên đã nhanh chóng trở thành nơi hấp dẫn, thu hút hàng triệu đồng bào từ các tỉnh thành đến sinh sống.
Một trong những lợi thế của Tây Nguyên là đất, được phân bổ ở hai nhóm chính: đất xám (acrisols) hình thành trên đá biến chất granit và nhóm đất đỏ (ferrasols) hình thành trên đá mẹ bazan do quá trình phong hóa.
Có thể nhìn thấy rất rõ ràng, những vùng đất tốt (đất đỏ ferrasols) cây cối xanh tốt trù phú, nhà cửa vườn tược khang trang. Đời sống kinh tế của người dân khấm khá, nhiều hộ gia đình là tỷ phú, triệu phú; từng xuất hiện trên truyền thông như những tấm gương làm kinh tế điển hình.
Trong nhiều năm, cùng các chính sách hỗ trợ của nhà nước, và ưu đãi từ thiên nhiên, những vùng đất này đã trở thành những khu vực kinh tế trọng điểm. Những cây trồng chủ lực đã tạo được thương hiệu quốc tế.
Những cánh đồng lúa ở xã Bông Krang, huyện Lắk, Đaklak. Ảnh: Hoàng Hường |
Tuy nhiên, ở những người dân huyện Lắk, huyện nghèo nhất tỉnh Daklak, lại thuộc vùng đất không tốt (đất xám acrisols) – thật không may - ở vùng kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào cây trồng, là câu chuyện đáng phải suy ngẫm.
“Chỗ chúng tôi ở giống như vùng lòng chảo, mùa mưa nước đổ về gây ngập úng, mua khô lại không có nước. Lúa ở đây chỉ làm được một vụ, cà phê thì không sai quả, ca cao cũng khó lên vì không đủ nước tưới”, ông Lữ Văn Tình, người dân tộc Thái, trưởng buôn Thái tại xã Bông Krang, huyện Lắk, tỉnh Đaklak nói.
Như ông nói, người dân trong vùng chủ yếu sống bằng trồng cây ngắn hạn là lúa, ngô, sắn và nuôi bò. Từ đây nảy sinh thêm một vấn đề khác: gánh nặng nợ nần của nông dân.
Theo giải thích của ông Tình, để đầu tư làm ăn nông nghiệp, hầu hết người dân phải vay vốn ngân hàng để đầu tư sản xuất: mua giống, phân bón, vận chuyển… Nếu may mắn được mùa, tính đi tính lại các hộ dân vẫn không có lãi, đa phần lỗ, vì giá giống và phân bón, vật tư luôn phụ thuộc vào thị trường. Nông sản lúc được mùa là mất giá. Còn mất mùa thì gánh nợ.
Ông Y Thin Teh. Ảnh: Hoàng Hường |
“Giá cám thì cao, không bao giờ xuống, giá heo lại tụt. Ở buôn Thái của tôi có 2/3 các hộ dân vay nợ, cả vay ngân hàng và bên ngoài. Đã có vài hộ phải bán rẫy bán ruộng trả nợ, nhiều hộ khác tuy chưa phải bán ruộng, nhưng cũng không khá hơn”, ông Tình chia sẻ (xem clip).
Ông giải thích, có rất nhiều lý do khiến nông dân lâm phải cảnh nợ nần như điều kiện thời tiết, giá cả thị trường, cây trồng bị sâu bệnh… khiến người dân quanh năm lo lắng đồng vốn đầu tư sản xuất. Hiện có hai nguồn vốn chính nông dân có thể tiếp cận là Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thời hạn 1 – 3 năm.
Tuy nhiên, theo ông, thời hạn cho vay của hiện này quá ngắn. Kết quả là “lợn chưa kịp lớn, bò chưa kịp đẻ, cây chưa ra quả” đã đến hạn trả nợ ngân hàng. Dân lại bán bò, lợn, cây non… trả nợ, đáo hạn. “Nhà nào không có bò, lợn bán thì phải vay nóng (vay tín dụng đen) bên ngoài với lãi suất 5% để trả nợ ngân hàng. Có nhà phải vay con buôn, trả lãi ngày, chờ làm thủ tục đáo hạn, lấy tiền vay từ ngân hàng để trả nợ nóng”, ông Tình nói. (xem clip)
Cái vòng luẩn quẩn như vậy cứ vây hãm nông dân.
Ông Y Thin Bya. Ảnh: Hoàng Hường |
Một hình thức vay nợ khác, phổ biến hơn, ở rất nhiều buôn làng Tây Nguyên. Nông dân vay trước giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật của đại lý, đến mùa đại lý trực tiếp đến cân thu luôn sản phẩm. “Được mùa thì trả lại được đại lý, nếu bị thiên tai sâu bệnh mất mùa thì mang nợ, năm nay không trả được thì sang năm bắt buộc phải trả. Vay không trả được lãi lâu dần thành gốc, lại đẻ lãi tiếp, nên nợ nần cứ đè thêm mãi”, ông Y Think Teh, người M’nông, Phó trưởng buôn Ja, xã Bông Krang, huyện Lắk, tỉnh Đaklak cho biết (xem clip).
Thêm nữa, đây chính xác là một cuộc chơi không công bằng giữa đại lý và người nông dân. Trong đó người nông dân luôn ở trạng thái bị động, thiệt thòi. Cả ông Lữ Văn Tình và ông Y Think Teh đều nói rằng người dân luôn bị các đại lý ép giá. Họ phải vay trước giống và vật tư nông nghiệp với giá cao, nhưng đến khi trả bằng thành phẩm lại chỉ được tính một nửa, hoặc luôn thấp hơn giá thị trường. Tính đi tính lại, người nông dân làm ăn “không lỗ là may rồi”, còn lãi và làm giàu là giấc mơ xa xỉ.
Câu chuyện của nông dân trồng mía, anh Y Thin Bya, dân tộc Ê đê, Bí thư chi bộ buôn Easar, xã Easar, huyện Eakar, tỉnh Đaklak lại là vấn đề khác: thông qua một trung gian là người nông vụ, nông dân nhà máy mía đường cấp vốn sản xuất. Tuy nhiên, số tiền đầu tư sản xuất như phân bón, công trồng, chăm sóc đều phải thuê người làm. Khi số tiền đầu tư vượt quá số tiền được nhà máy cho vay (25 triệu/1ha), nông dân phải vay lãi ngoài (3%) để duy trì sản xuất. Sau này giá thành phẩm lại do người nông vụ quyết định, tính ra người nông dân may mắn thì làm không công, nếu không lỗ, và hàng năm phải trả lãi cho nhà máy, thông qua trung gian nông vụ.
Ông Y Khía Long Dinh. Ảnh: Hoàng Hường |
“Có những vấn đề người trong cuộc mới hiểu. Ví dụ như chuyện các lái xe tải chở mía, dù đã được nhà máy trả tiền rồi, nhưng xe đầy rồi họ vẫn không chịu chở nữa, dù còn cả vài tấn mía đã chắt, phải đưa tiền cho họ mới chở. Gia đình tôi có lúc phải đưa thêm mỗi xem 500 nghìn, tài xế mới chở cho. Nếu không, mía đã chặt rồi, ai mua cho mình nữa?” “Ngoài ra, vô vàn thuế phí khác như phí đường bộ, công bảo vệ, quà cho lãnh đạo địa phương vv.. đều tính vào cho nông dân. Làm sao chúng tôi gánh được?” Y Thin kể (xem clip)
Theo người này, làm mía phải có diện tích lớn, ít nhất cũng 4 – 5 ha mới có lãi. Còn người dân trong vùng hầu hết chỉ có khoảng 1ha đổ lại thì làm không đủ chi phí, đều mang nợ.
Ông Y Thin Tek: “Người dân trong vùng (đa số là dân tộc M’nông) sống chủ yếu bằng làm thuê mượn hoặc đi nhặt phân bò bán. Mỗi bao phân bò khô bán được từ 30 – 35 nghìn đồng, hoặc đi lấy măng về đổi gạo, cứ 2kg măng đổi được 1kg gạo”.
“Vùng này số hộ dân vay nợ nhiều lắm, cả nợ Nhà nước lẫn nợ bên ngoài. Thu hoạch rồi bán sản phẩm, nếu vẫn chưa đủ thì đi làm thuê mướn lấy tiền trả nợ Nhà nước”, là chia sẻ của ông Y Khía Long Dinh, dân tộc M’nông, người dân buôn Mạ, xã Bông Krang, huyện Lắk, Đaklak (xem clip).
Người nông dân nói nhẹ bâng, với nụ cười chất phác.
Kỳ sau: Lãnh đạo địa phương và nhà khoa học nói gì?
Hoàng Hường