Nhìn ông, tôi bỗng ân hận khôn nguôi. Hóa ra lâu nay mình sống quá vô tình đối với ông.
TIN BÀI KHÁC
|
Nhà văn Lê Lựu. Ảnh: Nam Khành |
Kịch bản đích thực về Thời xa vắng
Đời văn của tôi nếu không có những nhà văn như Lê Lựu hẳn đã chẳng được hanh thông và nhiều khả năng tôi đã rẽ ngả khác lập nghiệp. Năm 1989 truyện ngắn Chạy trốn của tôi dự thi ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Lúc đưa lên chung khảo Chạy trốn bị loại. Lê Lựu là thành viên ban chung khảo. Ông phản đối quyết định này. Những nhận xét quyết đoán của Lê Lựu đã thay đổi số phận Chạy trốn. Nó được các thành viên khác đọc lại và chấp nhận đưa vào khung với giải nhì. Khỏi nói tôi hạnh phúc biết chừng nào khi đứa con đầu đời được khích lệ. Lúc đó tôi mới chỉ là người viết trẻ đang tập tễnh đi những bước đầu tiên. Tôi đã quyết định dấn thân vào nghề văn sau truyện ngắn này. Cũng phải một thời gian sau đó tôi mới có dịp vinh hạnh được gặp làm quen ông. Lê Lựu tỏ ra mừng rỡ một cách dễ gần và ông cực kỳ hóm hỉnh. À thì ra cu Tiến chủ lợn đây à. Con lợn lai giống của em nhảy hay lắm. Chả là nhân vật của tôi trong Chạy trốn có một con lợn đực theo chủ đi lai tạo giống nòi ở thành phố. Ông nheo mắt rồi cười rất sảng khoái.
Nhiều năm sau không dám gọi là thân thiết nhưng khi nào có dịp gần gụi, tôi luôn coi Lê Lựu như một người anh, người thầy đúng nghĩa. Chẳng riêng cái ơn “vớt” truyện ngắn giải thưởng mà thật sự tôi kính trọng văn tài của ông. Tôi đã say mê đọc gần như toàn bộ các tác phẩm của Lê Lựu và học hỏi được rất nhiều. Từ truyện ngắn Người cầm súng (1970) đến tiểu thuyết Mở rừng (1976) là những tác phẩm có thể coi là kinh điển của dòng văn học thời kỳ chiến tranh. Nhưng thật sự khẳng định vị trí vững chắc của Lê Lựu trên văn đàn phải là bộ ba tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994) và nhất là Thời xa vắng (1986) - một cuốn phim đời mang dấu ấn đau thương của thời đại.
Gần Lê Lựu mới phát hiện tất cả những gì trong cuốn tiểu thuyết đó mà đậm nhất là nhân vật chính Giang Minh Sài đã ứng nghiệm vào cuộc đời của ông một cách vô cùng kinh ngạc và đau đớn bội phần. Thời xa vắng đã được chuyển thể thành kịch bản phim nhựa đưa lên màn ảnh. Hiện tại có nhà làm phim đang thúc giục tôi mua bản quyền để chuyển thể tiểu thuyết này thành phim truyền hình dài tập. Nhưng cuộc đời thật của Lê Lựu còn sinh động, còn đau khổ gấp nhiều lần nhân vật Giang Minh Sài của ông. Nếu được phép ghép cuộc đời nhà văn và nguyên mẫu tiểu thuyết, tôi tin đó mới là một kịch bản đích thực về Thời xa vắng. Chẳng dám mơ đến điều đó, bởi vậy tôi vẫn dùng dằng suy tính...
Nỗi đau cuối đời
Ngôi nhà cũ của Lê Lựu ở số 8 Lý Nam Đế tôi mới chỉ đến đó chơi vài lần. Ông ít tiếp khách ở nhà. Một ngôi nhà mà những người thân thiết của Lê Lựu đều biết bản thân ông cũng chỉ là “khách”. Hai đời vợ, ba người con nhưng cuối đời ông phải tự mình xoay xở để lo thân dù cơ thể mang nhiều trọng bệnh và bản thân không cửa không nhà phải tá túc ở trụ sở cơ quan. Thật khó có thể ngờ một văn tài như Lê Lựu lại đang trong tình cảnh bi đát như vậy. Những lần hiếm hoi ông mời tôi đến nhà, lần nào ông cũng có việc để nhờ. Khi thì chú gọi thợ điện đến kiểm tra hộ anh sao cái côngtơ nó quay tốn tiền thế. Dứt khoát là cái thằng côngtơ này nó ăn gian, nó mõi tiền của anh. Chả là lúc đó tôi đang công tác bên ngành điện lực. Đại loại những chuyện vặt vãnh đó ít người ở tầm cỡ như Lê Lựu lại đi nhờ vả. Nhưng ông là vậy. Chân tình chứ không phải lạm dụng quan hệ. Tôi quý trọng ông một phần cũng ở cái sự chân thật rất nông dân này.
Tôi đến lúc nhà văn Lê Lựu đang nằm còng queo trên giường xem tivi trong căn nhà ông đang tá túc. Bộ dạng của ông trong chiếc áo sơmi và chiếc quần đùi nom thật thảm. May mà khuôn mặt tương phản với toàn bộ cơ thể ốm yếu, còn đầy đặn và hồng hào. Vừa nhác thấy tôi đến, nhà văn Lê Lựu đã thốt ra rất tình cảm, Tiến đấy hả em. Rồi ông bảo với cô cháu nhân viên Trung tâm văn hóa doanh nhân. Đây này, chú Tiến đấy. Chú Tiến nhà văn gốc điện có cái truyện con lợn đực đi nhảy lai giống nuôi chủ, tao vẫn nhắc đấy. Đã mấy chục năm ông vẫn nhớ chi tiết ấy. Không kìm nén được, tôi bật khóc ôm lấy ông. Tôi là người khóc trước Lê Lựu dù bây giờ ông mắc bệnh cứ gặp ai là lại mếu máo sụt sùi.
Bi kịch gia đình ông, nhiều người đã biết. Lần này, ông kể rất lâu về tình cảnh hiện tại của mình. Còn đưa ra cả bản sao trích lục của tòa án vụ ly hôn hơn bốn chục năm trước. Tôi giật mình về những tiết lộ của ông. Sao lại khốn khổ đến mức đó cơ chứ. Mảnh đất hương hỏa của dòng tộc thuộc về ông nhưng giờ lại mang tên trong sổ đỏ người vợ cũ dù bản án đã tuyên minh bạch mọi điều và những người trong cuộc đã giải quyết dứt điểm mọi tồn đọng. Thêm nữa, người vợ thứ hai sau khi bán ngôi nhà số 8 Lý Nam Đế có chia một phần tiền cho ông và đưa ra tờ đơn ly hôn. Ông đã ký nhưng lại không cầm một bản nào. Đến giờ sau bốn năm, người vợ trên danh nghĩa giấy tờ ấy biệt tăm ông không biết đang ở đâu dù ông đã hết sức kiếm tìm. Nhà văn ước muốn trước khi nhắm mắt, miếng đất ở quê lại được mang tên ông để ông ủy quyền cho cháu họ và con gái thay nhau hương khói tiên tổ. Và nữa Lê Lựu muốn dứt điểm ly hôn người vợ thứ hai đã cạn nghĩa cạn tình. Để làm gì? Để không vướng mắc khi ông chết, mọi tài sản còn lại của ông sẽ vẹn nguyên dành cho Quỹ nhà văn Lê Lựu, để tránh được một cuộc chia chác tài sản đau đớn lần thứ hai.
Chao ôi, đắng đót làm sao. Nhìn ông lần từng bước vịn vào tường cố đi ra tiễn khách, tôi phải vận sức nuốt ngược nước mắt vào trong. Tôi đưa ông vài tờ bạc làm quà nhưng Lê Lựu gạt đi. Cảm ơn em, tiền quý nhưng anh không cần. Anh cần Tiến giúp, cần mọi người giúp cho tâm nguyện cuối cùng của anh được thỏa ước.
Tôi đi thật nhanh tránh cơn xúc động cứ trào lên trào
mãi. Em tin còn có sự công bằng anh Lựu ạ. Mọi người rồi sẽ cùng nhau
giúp anh...
Lê Lựu và những cái nhất Cái nhất đầu tiên là tiểu thuyết Thời xa vắng. Công cuộc đổi mới đất nước vừa được mở ra thì ngay lập tức văn học đã ghi được dấu ấn bất ngờ bằng tác phẩm này của Lê Lựu. Ông viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời. Cái thời đó tác giả gọi là “thời xa vắng” nhưng thật ra vẫn chưa qua. Đó là cái thời nhân vật Giang Minh Sài sống không phải là mình, nửa đời trước sống cho cái mình không có, nửa đời sau sống chạy theo cái không phải của mình. Nhân vật văn chương này đã được nhớ tên, được coi như một định ngữ chỉ một kiểu người, một kiểu sống, điều này rất ít có trong văn chương nhiều năm trước đó vốn chỉ có hình tượng nhân vật tập thể mà không thể gọi tên một nhân vật cụ thể nào. Thời xa vắng đã được đón đọc nồng nhiệt, ai đọc cũng thấy mình trong đó, và được giới phê bình coi là tác phẩm mở đầu cho một xu hướng của văn học đổi mới - xu hướng nhận thức lại thực tại. Cái nhất thứ hai là chuyến đi Mỹ đầu tiên của một nhà văn cựu chiến binh Việt Nam (1988). Hồi đó đi nước ngoài là cả một chuyện khó khăn về thủ tục, chưa nói đến hành trình, còn đi Mỹ thì càng ngặt nghèo. Nhà văn gốc nông dân gốc lính Lê Lựu đã phải nằm ở Bangkok ba tuần chờ thủ tục visa, đã một thân một mình tìm đường ở các sân bay với vốn liếng tiếng Anh chỉ là hai từ “help me” được mách từ ở nhà. Vậy mà ông đã đến được nước Mỹ tiếp xúc với các nhà văn cựu chiến binh Mỹ từng là kẻ thù trước đây, gặp gỡ độc giả, nói chuyện tuần hai - ba ca, giúp cho những người Mỹ được gặp ông từ còn là hằn thù, nghi kỵ dần cởi bỏ được những vướng mắc, tiến tới chỗ bắt đầu hiểu nhau. Chuyến đi Mỹ đó của Lê Lựu nói chữ thì là làm “ngoại giao nhân dân”, còn nói theo cách ví von của nhà văn thì hai nước như hai nhà có xung đột, đánh nhau, nay muốn tìm cơ hội làm lành thì trước hẵng cứ xua con chó, con mèo chạy qua bờ rào hai bên xem thế nào đã. Cái nhất thứ ba là Trung tâm văn hóa doanh nhân. Đất nước mở cửa, hội nhập, chấp nhận nền kinh tế thị trường, tầng lớp doanh nhân được cơ hội phát triển, làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Nhưng kinh tế không thể tách rời văn hóa, làm giàu mà chỉ biết có tiền thì chỉ là anh trọc phú. Lê Lựu đứng ra thành lập trung tâm với tên gọi “văn hóa doanh nhân” quả là nhạy bén, đúng lúc. Ông giám đốc Trung tâm văn hóa doanh nhân Lê Lựu vốn không quen nghề buôn bán đã phải vất vả, tất tả duy trì sự tồn tại của nó cho đến nay. Có ông thì trung tâm vẫn tồn tại. Cái nhất thứ tư nhưng là cái nhất xuyên suốt là chất nông dân với tất cả mọi sắc thái ý nghĩa của từ này. Lê Lựu nhìn đã biết là người của nông thôn, làng quê từ dáng vẻ thân hình, lời ăn tiếng nói, cho đến quần áo trang phục, cách nghĩ cách cảm. Một chất quê vừa là đặc sản vừa là đặc trưng. Và ngẫm ra, suốt đời văn của mình, Lê Lựu chỉ viết về người nhà quê trong người mình và những người quanh mình, dù cho họ có sống ở thị thành bao năm đi nữa. Có lẽ vinh quang, thành công và cả cay đắng của Lê Lựu trong đời và văn cũng là từ đấy. PHẠM XUÂN NGUYÊN |
Theo Tuổi trẻ