- Cách đây 8 năm, bà tôi được chị ruột tặng cho một miếng đất, nói cho bà tôi ở hết đời. Bà tôi đã xây nhà kiên cố trên đó và ở đến bây giờ. Vừa rồi chị của bà mất, các con của bà bác ấy đòi bà tôi phải trả miếng đất đó. Gia đình chúng tôi cũng vui lòng nhưng với điều kiện sau khi bà tôi mất. Giờ bà vẫn khỏe mạnh thì họ có được kiện đòi lấy lại miếng đất đó không?

TIN BÀI KHÁC

{keywords}
Đất đã cho nay họ đòi lại (Ảnh minh họa)

Thứ nhất: Về việc tặng cho bất động sản.

Theo thông tin bạn cung cấp thì bà bạn được chị của bà tặng cho một miếng đất cách đây 8 năm. Thời điểm đó áp dụng Luật Đất Đai 2003, Điểm b khoản 1 điều 129 quy định: 

“Điều 129. Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất

1. Việc nộp hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất được quy định như sau:

a) Hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

b) Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất gồm di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế hoặc bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp người được nhận thừa kế là người duy nhất thì hồ sơ thừa kế gồm đơn đề nghị và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất gồm văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho hoặc quyết định của tổ chức tặng cho quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước.”

Theo quy định này thì việc tặng cho bất động sản phải được lập thành hợp đồng có công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền mới có hiệu lực pháp luật. Nếu tặng cho mảnh đất trên không được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực thì việc tặng cho không có hiệu lực pháp luật. Sau khi tặng cho, quyền sử dụng đất cần được sang tên cho người nhận tặng cho. Nếu bà bạn chưa có hợp đồng tặng cho và thửa đất chưa sang tên cho bà bạn thì việc tặng cho đất chưa được công nhận theo quy định pháp luật.

Thứ hai: Chia di sản thừa kế.

Nếu quyền sử dụng mảnh đất trên vẫn đứng tên chị bà bạn, trong trường hợp chị của bà bạn mất đi thì mảnh đất trên sẽ trở thành di sản thừa kế, được để lại cho những người thừa kế của người đó là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: chồng, con của người để lại di sản theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự 2005: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”

Như vậy, những người có quyền thừa kế trong trường hợp này có quyền yêu cầu bạn gia đình bạn trả lại mảnh đất trên. Nếu bà bạn đã bỏ tiền xây nhà trên đất thì có quyền đề nghị Tòa án xem xét hoàn trả giá trị nhà trên đất. Tranh chấp về quyền sử dụng đất thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 203 Luật Đất Đai 2013.

Tư vấn bởi Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Ban Bạn đọc