- Trong lúc vui, anh đã say và ở lại quán đó khi bạn bè mình đã về hết. Một thời gian sau, cô ta đến đơn vị anh bảo có bầu và đứa con trong bụng là của anh trai em...

TIN BÀI KHÁC

(ảnh minh họa)

Anh trai em hiện là một quân nhân trong quân đội. Cách đây 3 năm, anh có đến quán của một phụ nữ chưa chồng nhậu và hát Karaoke. 

Trong lúc vui, anh đã say và ở lại quán đó khi bạn bè mình đã về hết. Một thời gian sau, cô ta đến đơn vị anh bảo có bầu và đứa con trong bụng là của anh trai em và viết đơn gửi đơn vị... Đơn vị đã kỉ luật anh và bắt anh đi xét nghiệm ADN. Anh trai em và 2 mẹ con cô gái đó cùng đi xét nghiệm tại Viện Quân Y Trung tâm Nghiên cứu Sinh- Y- Dược tại Hà Nội. Kết quả là anh và con của cô ta không cùng huyết thống. Sau đó, anh trai em đã xin đơn vị lập gia đình với một cô gái anh tìm hiểu và yêu thương bấy lâu, nhưng đơn vị không cấp giấy xác nhận cho anh kết hôn. 

Cô gái kia vẫn đến đơn vị và quấy rầy bảo là muốn đi xét nghiệm lại. Sau đòi hỏi của cô ta, đơn vị lại bắt anh trai em phải thực hiện theo yêu cầu của cô ta. Nhưng cô ta chỉ muốn xin mẫu tóc để tự đi xét nghiệm ADN. Bây giờ gia đình em phải thuyết phục mãi cô ta mới chịu hẹn 01 tháng nữa để cho cô ta lựa chọn trung tâm xét nghiệm và gia đình em phải chịu chi phí cho mọi lần đi xét nghiệm.

Đã gần đến ngày hết hẹn để đi xét nghiệm nhưng cô ta vẫn không liên hệ để đi xét nghiệm, đơn vị yêu cầu anh phải viết đơn ra quân nếu không giải quyết xong. 

Cô ta lợi dụng kỉ luật quân đội thích vu khống, viết đơn tố cáo, cô ta bắt đi xét nghiệm lần này đến lần khác đơn vị cũng bắt anh đáp ứng yêu cầu có được không ạ? Vì thế mà anh trai em chưa vợ lại không có quyền được kết hôn và phải ở vậy suốt đời ư? Như vậy có vi phạm luật hôn nhân gia đình không? Còn việc đơn vị ép buộc phải viết đơn ra quân hoặc bị tước quân tịch hoặc bị chuyển công tác vì người khác viết đơn vu khống có đúng không? (Trần Thị Hoa ở Đội 7- Thôn Hiển Lộc- Duy Ninh- Quảng Ninh- Quảng Bình).

Luật sư tư vấn:

Theo quy định của của Luật quân nhân năm 1999 quy định những việc sĩ quân không được làm như sau: Sĩ quan không được làm những việc trái với pháp luật, kỷ luật quân đội và những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm.

Theo quy định của Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy định những việc CBCC không được làm cụ thể như sau:

Điều 18. Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ

1. Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công.

2. Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật.

3. Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi.

4. Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.

Điều 19. Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến bí mật nhà nước

1. Cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.

2. Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.

3. Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách đối với những người phải áp dụng quy định tại Điều này.

Điều 20. Những việc khác cán bộ, công chức không được làm 

Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, đối với việc làm của anh bạn thì không vi phạm pháp Luật vì dù anh bạn có thừa nhận đã quan hệ với cô gái kia nhưng do cả hai bên tự nguyện, đã đủ năng lực hàng vi dân sự và đã có xét nghiệm ADN xác định đứa bé không phải là con anh trai chị thì không phải chịu trách nhiệm chăm lo, nuôi dưỡng bé. Nhưng về vấn đề đạo đức, quan hệ cá nhân thì phải xem quy định cụ thể trong kỹ luật quân đội.

Về việc xác nhận đăng ký kết hôn thì về nguyên tắc anh của bạn chưa đăng ký kết hôn lần nào thì thủ trưởng đơn vị nơi anh bạn đóng quân phải xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại: Điều 18 Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch khi đăng ký kết hôn.

1. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân.

Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại Chương V của Nghị định này.

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận

Về việc xử lý sĩ quan vi phạm thì theo quy định tại Điều 49 Luật sĩ quan quy định về xử lý vi phạm quy định: “Sĩ quan vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật của Nhà nước thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo Điều lệnh quản lý bộ đội, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”

Như vậy, trường hợp của anh bạn phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm và theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Quân đội.

Tư vấn bởi Văn phòng luật sư Giải Phóng. Địa chỉ: 225 Hai Bà Trưng, Phường 6, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh. Tổng đài tư vấn luật: 19006665

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ).