- Vì cùng với khát vọng về một cái đẹp cố gắng theo đuổi, được sống yêu thương đến cùng cực, tôi nhận ra, nhờ viết văn tôi trở nên thông minh hơn, logic hơn, kiên nhẫn đến lì lợm và luôn sẵn sàng đón nhận cuộc sống tràn đầy lòng nhân ái và tích cực - nhà văn Phạm Thị Bích Thủy.

Thuở còn là học sinh phổ thông, Phạm Thị Bích Thủy học giỏi đều các môn, đặc biệt là Toán. Nhưng khi theo bạn hàng xóm đi thi vào trường chuyên, cô lại đỗ vào lớp chuyên ngữ của Đại học sư phạm Hà Nội và ở lớp này cô học chuyên tiếng Pháp. Oái oăm, thi tốt nghiệp phổ thông cô ghi tên thi đại học khối A (Toán Lý Pháp) và cô đạt điểm cao nên được cử đi học đại học ở Liên Xô.

Rắc rối vẫn chưa buông tha. Đi học Dự bị Đại học tiếng Nga, ban đầu cô được phân theo nguyện vọng được học khoa Công nghệ sinh học, nhưng sau tổ chức lại xếp sắp vào học khối C. Cuối cùng cô nhập vai sinh viên Đại học sư phạm quốc gia A. I Gersen tại Léningrade- nay là Saint Petersberg và nhập khoa Tiếng Nga và Văn học. Một thế giới mới bất ngờ mở ra trước con mắt của cô nữ sinh Việt Nam đa năng.

Văn học Nga, đặc biệt văn học cổ điển Nga, với những tên tuổi lẫy lừng: F.M. Dostoyevski, A.Poushkine, Lev Tolstoi, A.Tchékhov, I.Tourguéniev... là một cánh rừng đại ngàn trùng trùng điệp điệp. Đọc trực tiếp nguyên bản các kiệt tác của các cây đại bút này, lần đầu tiên tâm trí cô được mở ra những chân trời bát ngát cùng những cảm xúc nhân văn chứa chan và khát khao niềm chia sẻ.

Cô rung động trước cuộc tình đắm đuối của cô Con gái người coi Trạm trong truyện ngắn cùng tên của văn hào Poushkine. Cô nhớ như in đoạn văn tả cây sồi trong tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoy. Văn học Nga để lại những ấn tượng thẩm mỹ huy hoàng và một cách tự nhiên cảm hứng sáng tạo đã lặng lẽ lắng đọng và được âm thầm nuôi dưỡng trong tâm hồn cô.

{keywords} 

1985, Thủy về nước. Nhận công việc giảng dạy tại Đại học ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội, trở thành cô giáo dạy văn học Nga. Đó là những năm tháng đất nước đứng bên bờ của khủng hoảng, mọi người đều phải gồng mình lên trong bươn chải để mưu sinh và phát triển. Thông minh và ham học.

Cùng với tiếng Nga, chẳng bao lâu, Thủy đã học thêm và thông thạo cả Anh ngữ, có bằng cử nhân Anh văn. Cô theo học một khóa học kinh tế và nhận bằng Thạc sĩ quản trị kinh doanh một đại học của Mỹ. Những gì là níu kéo đã được rỡ bỏ. Cô bắt đầu dấn thân vào môi trường mới và nhận ra tất cả sự hấp dẫn vì tính phong phú sinh động của các hoạt động và những đặc sắc trong tính cách của con người ở lĩnh vực kinh doanh.

Hiểu biết và nhạy bén, cô được các Tổ chức kinh tế trong và ngoài nước đón nhận nhiệt tình. Làm tư vấn cho nhiều tập đoàn và bây giờ cô đang làm việc cho một Tập đoàn đa quốc gia về đồ uống của nước Anh, có hàng trăm nhãn hiệu rượu, bia cao cấp hàng đầu thế giới, có doanh thu hàng năm gần 18 tỷ đôla , có cổ phần lớn ở một công ty đồ uống hàng đầu của Việt Nam...

Đó là những năm tháng Thủy đi nhiều. Lên rừng, xuống biển. Leo núi, lội đồng. Ra Bắc vào Nam. Anh, Pháp, Úc, Mỹ, Singapore, Hongkong là trường giao tiếp thường xuyên. Qua hết châu Âu, châu Mỹ lại châu Phi. Giao tiếp với đủ các vị chức sắc, các hạng người. Trực tiếp tham gia vào đủ các công việc lớn nhỏ với tất cả niềm say mê háo hức của một tuổi trẻ yêu tha thiết cuộc đời và sự nghiệp. Đó là thời gian cô học hỏi, và tích lũy được rất nhiều bài học bổ ích cho cuộc sống và nghề nghiệp.

Sống, làm việc, suy nghĩ mải mê, cho đến một lúc nào đó, cô bỗng nhận ra trong con người mình lâu nay vẫn âm ỉ một khát muốn, một nhu cầu được bộc lộ, được tỏ bầy. Nếu trong anh có một cái truyện ngắn thì rồi thế nào nó cũng tìm cách bật ra. Đó là một câu nói của bậc thầy truyện ngắn A.Tchékhov.

Và Thủy bắt đầu viết. Viết những trang văn đầu tay, sau một quá trình phi tự giác, không tự biết, rằng đã có một cuộc chuẩn bị. Sống rồi mới viết. Viết bằng tất cả những trải nghiệm của chính mình! Phải chăng đó là một quy tắc căn bản của công việc sáng tạo văn chương mà cô đã thực hiện một cách tự phát. Và bây giờ thì tự trong sâu sa, cô nhận thêm ân điển sau đây nữa, cô còn là con gái nhà thơ Phạm Cúc xứ Thanh - một khát khao tạo nghiệp thi ca. Thầy giáo Cúc dạy sử cấp III, cùng một khóa Đại học Sư phạm một thời với các nhà sử học lỗi lạc Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm, Trần Quốc Vượng...

Thoạt đầu là những đoản văn trong một loại sách nhằm truyền bá một ý tưởng nào đó kèm theo những trang PR cho một sản phẩn kinh doanh rồi phát triển ý tưởng, viết kịch bản và sản xuất các chương trình truyền hình xã hội, từng bước đi vững chắc, dần dần Thủy viết truyện ngắn và truyện vừa.

Truyện ngắn hay là truyện ngắn tỏa hương, có độ ngân rung, có dư ba. Truyện ngắn của Thủy như những truyện Công nhân dây chuyền giày, Log book, Đậu phụ, Casablanca, Thời đại Internet. Báo tin cho Hạnh phúc, Bình yên.. trong tập này là những truyện rất ít chữ, nhưng đạt yêu cầu ấy.

Và nếu ẩn dụ là đặc trưng của nghệ thuật thì những truyện kiểu vừa nói có thêm đặc điểm này. Kiệm lời, hàm súc, loại truyện này là những lát cắt gọn ghẽ, có sức gợi của ngụ ngôn, chúng cho ta thấy một vài đặc điểm của cuộc sống hiện đại hôm nay, và đọc xong, gấp sách lại, hơn cả trách móc, trong ta còn lại một nụ cười hóm hỉnh trên môi. Thủy kể: Những ngày đi làm công nhân trong nhà máy sản xuất giầy tại Liên Xô hồi còn du học-người thợ luôn chân luôn tay, trong một hoạt động có tính cơ giới, như Sáclô Saplin trong film Thời đại mới là cái ám ảnh gợi ý tôi viết truyện ngắn Công nhân dây chuyền giầy.

Lớp truyện thứ hai trong tập này có dung lượng dầy dặn hơn và mang lại những hiệu quả nghệ thuật khác với loạt truyện đã kể trên. Đó là À í a, Thằng Tê, Ăn cắp, Chạy trốn. Một làng quê bao nhiêu năm nay càng lúc càng tiêu điều sơ xác trong nghèo nàn, khổ mà không biết là mình khổ, với cái kết là bài hát À í a mở rộng một không gian mênh mang những nỗi buồn.

Chiến tranh và số phận bi thương của những con người trong cuộc, hiện hình tập trung trong một chú bé mang một cái tên phiếm chỉ Thằng Tê sao mà thảm thê vậy. Những cuộc bàn thảo dông dài về một chuyện cỏn con trong tập thể, chỉ là để duy danh định nghĩa thế nào là kẻ Ăn cắp, đã tự phơi bầy cái nhàm tẻ, vô nghĩa và cả giả dối nữa của một cuộc sống bệnh hoạn mà không biết đó là bệnh hoạn.

Cuộc Chạy trốn ra khỏi cái đói nghèo khốn khổ trong truyện ngắn cùng tên ở trong tập này là cái thảm cảnh buồn đến tê nhức vì còn mang một hình thái bất ngờ khác nữa, qua số phận một thiếu nữ nông thôn trong cảnh bần hàn hoàn toàn bế tắc.

Văn học luôn là một trường liên tưởng. Đọc À í a lại chợt nhớ tới cảm giác bùi ngùi xót xa như khi đọc Cố hương của Lỗ Tấn. Đọc Ăn cắp, qua cái cách diễn tả dề dà một cách có dụng ý nghệ thuật, thấy thấp thoáng cái cách viết châm biếm chua cay ở những trang văn cổ điển nào đó của các bậc đàn anh.

Cũng thuộc loại tư duy truyền thống trong sáng tạo là Hết nến, và một số truyện nữa, từ cách cảm, cách chọn đề tài, cách đặt tên truyện, cách dựng tình huống và hiệu quả nghệ thuật là những xúc động tràn đầy tình thương yêu. Mới hay, đằng sau câu chữ là là cái tảng băng chìm của sức thẩm thấu.

Mới hay, người viết quan sát cuộc sống bằng con mắt, nhưng cảm nhận thì phải bằng trái tim. Mới hay, chỉ trở thành người viết thực sự là người biết bồi đắp năng khiếu ban đầu của mình. Nghệ thuật luôn đặt giá trị ở tầm vóc các trang viết. Đọc truyện của Thủy, không thấy dấu vết của sự non nớt, cẩu thả. Thủy viết khá chắc tay. Các thủ pháp kể, dựng, tả, luận hài hòa trong thuần thục và tinh tế. Mạch văn của Thủy dồi dào, tươi tắn, tự nhiên, thoải mái, như viết bằng trực giác, bằng bản năng

Trả lời câu hỏi đang là nhà kinh doanh bận rộn, vì sao lại còn viết văn? Thủy đáp: Vì cùng với khát vọng về một cái đẹp cố gắng theo đuổi, được sống yêu thương đến cùng cực, tôi nhận ra, nhờ viết văn tôi trở nên thông minh hơn, logic hơn, kiên nhẫn đến lì lợm và luôn sẵn sàng đón nhận cuộc sống tràn đầy lòng nhân ái và tích cực.

Với nghề văn một khi đã dấn thân, không thể không thi gan mà làm! Đó là điều căn dặn của người xưa. Điều này hiển nhiên là Thủy đã biết, có thể là kể từ khi cô bắt đầu dợm chân bước vào quá trình chuẩn bị một cách không tự biết. Tất nhiên, với văn chương thì cả cuộc đời người viết phải là sự tích tụ và tập rèn.

Hà Nội 20/ 12/ 2013

Nhà văn Ma Văn Kháng