Tính cách và hình ảnh trước quần chúng của các tổng thống đương nhiệm, cũng như những thành công và thất bại trong thời gian cầm quyền sẽ trở thành yếu tố chính quyết định liệu Tổng thống đó có thể tiếp tục đắc cử.

Kể từ năm 1789, nước Mỹ đã trải qua 56 cuộc bầu cử Tổng thống. Trong đó có 30 cuộc bầu cử, tổng thống đương nhiệm đã đắc cử nhiệm kỳ thứ hai; và 10 cuộc bầu cử, tổng thống đương nhiệm đã bị thất cử.

Lịch sử gần đây liên tục cho thấy những nguy hiểm mà tổng thống đương nhiệm thường phải đối mặt trước cuộc bầu cử tổng thống mới. Tổng thống Harry Truman, người lẽ ra đã vận động tái tranh cử tổng thống lần hai năm 1952, nhưng ông đã phải đối mặt với thất bại gần như chắc chắn và ông đã chọn rút lui khỏi cuộc tranh cử năm ấy. Lyndon Johnson đã từ bỏ ý định tái tranh cử Tổng thống năm 1968 khi sự ủng hộ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sút giảm trầm trọng. Khi Gerald Ford nỗ lực tiếp tục ở lại Nhà Trắng năm 1976, ông bị đánh bại bởi Jimmy Carter. Bốn năm sau đó, Carter lại thất cử trước Ronald Reagan. Phó Tổng thống của Reagan, George H.W. Bush đã thắng cử Tổng thống năm 1988 nhưng sau đó ông lại thua bởi tay Bill Clinton năm 1992. Trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó, Tổng thống Bush chỉ nhận được 37% số phiếu phổ thông, một thất bại cay đắng trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông.

Những bài học trong lịch sử này hẳn phải ảnh hưởng rất nhiều đến Barack Obama và các cố vấn của ông khi ông theo đuổi nhiệm kỳ thứ hai trong Nhà Trắng. Lúc nào cũng vậy, tính cách và hình ảnh trước quần chúng của các tổng thống đương nhiệm, cũng như những thành công và thất bại trong thời gian cầm quyền sẽ trở thành yếu tố chính quyết định liệu Tổng thống đó có thể tiếp tục ứng cử. Và cuộc bầu cử năm 2012 cũng vậy. Trên hết, cuộc bầu cử này sẽ là một cuộc trưng cầu dân ý về nhiệm kỳ vừa qua của Tổng thống  Barack Obama.

Ứng cử viên Đảng Cộng Hòa ông Mitt Romney sẽ công bố thành tích của bản thân là một nhà điều hành kinh doanh thành công, vị cứu tinh của Thế vận hội mùa Đông ở thành phố Salt Lake, thống đốc bang Massachusetts. Nhưng những thành tích của ông sẽ bị lu mờ khi đặt cạnh các chỉ trích Obama của ông và những người ủng hộ ông.

Họ sẽ nói Obama đã điều hành nền kinh tế một cách sai lạc và làm tăng thâm hụt ngân sách lên mức kỉ lục trong lịch sử nước Mỹ. Họ sẽ mô tả kế hoạch chăm sóc y tế của Obama - thành tựu lập pháp căn bản của ông - là "nền y tế bị xã hội hóa" hay "sự tiếp quản của chính phủ" đối với y tế. Họ cũng sẽ miêu tả chính sách đối ngoại của Obama là yếu, thiếu định hướng và vẽ ra hình ảnh Obama - như Mitt Romney vẫn thường nói - là một "người đi xin lỗi" cho nước Mỹ.

Đây là thứ quen thuộc mà các ứng cử viên Đảng đối lập thường sử dụng để tấn công vào hồ sơ của Tổng thống đương nhiệm. Vì không có hồ sơ giống như Tổng thống, những ứng cử viên được an toàn khỏi các cuộc phản công, và Tổng thống đương nhiệm thường rơi vào thế phòng thủ.

Nhưng Tổng thống đương nhiệm không đơn giản chỉ là một người bị đổ trách nhiệm. Trong thực tế, thời gian nắm quyền cung cấp cho Tổng thống rất nhiều lợi thế. Thứ nhất là kinh nghiệm. Mỗi Tổng thống đương nhiệm đều gắn cho đối thủ của mình cái mác là không có kinh nghiệm, không sẵn sàng đối phó với công việc khó khăn khi trở thành Tổng thống. Trong cuộc bầu cử này, Mitt Romney nói về một chính sách đối ngoại cứng rắn hơn. Nhưng Obama khẳng định ông đã hành động thực sự và nhắc nhở người Mỹ về thành công của ông trong việc tiêu diệt Osama Bin Laden.

Luật pháp Mỹ quy định rằng những người thuộc biên chế trong chính phủ không được tham gia các chiến dịch chính trị. Nhưng ranh giới giữa chính phủ và chính trị là rất mong manh nên sự cấm đoán này phần lớn là không thể thực thi. Tổng thống dẫn đầu nhánh hành pháp với hàng triệu nhân viên. Đội ngũ nhân viên của ông trong Nhà Trắng  bao gồm hàng trăm người trung thành tận tụy với Tổng thống, tất cả họ sẽ mất việc nếu Tổng thống bị đánh bại. Bảo đảm Tổng thống đương nhiệm tái đắc cử trở thành ưu tiên cao nhất của những người này, và họ sẽ làm bất cứ điều gì có thể để kéo sự ủng hộ về phía Tổng thống.

Tổng thống thường có ba lợi thế lớn nhất trong các kì bầu cử. Một trong những lợi thế đó là Không lực số 1, chiếc Boeing 747 của riêng Tổng thống. Tổng thống có thể bay tới bất cứ đâu và bất cứ khi nào trên nước Mỹ hay trên thế giới với chi phí của chính phủ. Đối thủ Tổng thống sẽ phàn nàn rằng Tổng thống đang sử dụng ngân sách nhà nước cho mục đích tranh cử, nhưng không có cách nào để thay đổi điều đó. Tổng thống phải làm công việc của họ và thường thì đó là hình thức tốt nhất của vận động tranh cử.

Lợi thế thứ hai của Tổng thống đương nhiệm là thu hút chú ý của các phương tiện truyền thông. Tổng thống là người nổi tiếng nhất trong tất cả các mức độ nổi danh ở Mỹ. Khi Tổng thống thực hiện bất cứ hoạt động nào như đọc diễn văn, họp báo, các chuyến đi, ra tuyên bố, bữa tiệc nhà nước đều xuất hiện trên các phương tiện truyền thông ngay lập tức. Trong khi đối thủ Tổng thống cố gắng thu hút sự chú ý trong các chiến dịch tranh cử, tổng thống không phải đối mặt với thách thức này. Hàng nghìn phóng viên luôn có mặt tại Nhà Trắng, hàng chục phóng viên luôn theo sát mỗi bước đi của Tổng thống.

Yếu tố nổi tiếng cũng giúp Tổng thống có được lợi thế thứ ba đó là huy động vốn. Một vài Tổng thống thường là ông trùm về khả năng tài chính. Các chiến dịch tranh cử Tổng thống ở Mỹ thường rất tốn kém. Tất cả số tiền này đều xuất phát từ cá nhân. Kết quả cuộc bầu cử thường được định hình trên lượng tiền một ứng cử viên bỏ ra và sử dụng nó một cách hiệu quả. Quần chúng thường muốn nhìn và nghe Tổng thống của họ nói và họ muốn được nhìn với Tổng thống. Họ sẽ đóng góp cho chiến dịch tranh cử của Tổng thống.

Chúng ta sẽ có cái nhìn chặt chẽ hơn về các nguồn tài chính trong các chiến dịch tranh cử của Mỹ trong bài báo tới. Nhưng khi cuộc đua tiền nổ ra, đặt cược vào Tổng thống đương nhiệm luôn là an toàn nhất.

  • GS. Calvin Mackenzie là giáo sư chính trị học nổi tiếng của ĐH Colby, Hoa Kỳ. Ông hiện là một học giả của chương trình Fulbright ở Việt Nam.