vietnamnet
Lời Tòa soạn:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 cơ bản bố trí bí thư cấp tỉnh không là người địa phương.

Đến nay, số bí thư cấp tỉnh không là người địa phương ngày càng nhiều, được lựa chọn kỹ lưỡng và chất lượng. Việc này đã mang đến luồng gió mới, góp phần đổi mới và tạo nhiều chuyển biến cho địa phương. 

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay có “bóng dáng” đậm nét của nhiều bí thư tỉnh ủy không là người địa phương. Đồng thời, nhiều cán bộ qua luân chuyển về địa phương đã trưởng thành và trở về giữ chức vụ quan trọng ở Trung ương.

Qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với một số bí thư tỉnh ủy được luân chuyển thời gian qua, VietNamNet khái quát lại kết quả bước đầu trong triển khai, thực hiện chủ trương “bí thư không là người địa phương”.

So với con số 27/63 bí thư không là người địa phương từ đầu nhiệm kỳ Đại hội 13 của Đảng, đến nay có thêm 13 nhân sự từ Trung ương về địa phương làm bí thư tỉnh ủy.

Trong đó có thể kể đến một số gương mặt mới được Bộ Chính trị điều động, chỉ định từ Trung ương về địa phương trong năm 2022, 2023.

Cụ thể, ngày 23/7/2022, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Nguyễn Anh Tuấn được Bộ Chính trị điều động, chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh.

Ngày 27/10/2022, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Đức Thắng được điều động về làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương.

Ngày 16/11/2022, Phó Ban Nội chính Trung ương Trần Quốc Cường được Bộ Chính trị phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Điện Biên.

Ngày 16/1/2023, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Lê Tiến Châu cũng được điều động về làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng.

Ngày 31/3/2023, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Đoàn Minh Huấn được chỉ định về làm Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình.

Ngoài ra, cũng có một số cán bộ được điều động từ địa phương này sang làm bí thư tỉnh ủy, thành ủy địa phương khác.

Điển hình như ngày 25/7/2022, ông Nguyễn Phi Long, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định được Bộ Chính trị điều động, phân công, chỉ định giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình.

Ngày 27/5/2023, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Hiếu được phân công về làm Bí thư Thành ủy Cần Thơ.

Cùng với việc đưa cán bộ Trung ương về địa phương, Bộ Chính trị cũng điều động một số bí thư không là người địa phương trưởng thành ở một số tỉnh, thành trở về Trung ương giữ chức vụ mới.

Cụ thể như ông Ngô Văn Tuấn, từ Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương được điều động về địa phương giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình từ tháng 7/2019. Đến tháng 10/2020, ông Tuấn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình. Sau 3 năm trải nghiệm ở địa phương, tháng 7/2022, ông được điều động trở về Trung ương giữ chức Phó Tổng kiểm toán phụ trách Kiểm toán Nhà nước và được Quốc hội bầu làm Tổng Kiểm toán từ tháng 10/2022 cho đến nay.

Hay như trường hợp của ông Nguyễn Văn Thắng cũng là cán bộ Trung ương được điều động về làm Phó Chủ tịch (7/2018-7/2019), rồi lên Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh từ tháng 7/2019-10/2020. Sau đó ông được điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Điện Biên trong 2 năm (10/2020 - 10/2022) và trở lại Trung ương với cương vị mới là Bộ trưởng Bộ GTVT từ tháng 10/2022.

Còn bà Đào Hồng Lan được điều động về Bắc Ninh làm Phó Bí thư Tỉnh ủy vào tháng 2/2018 khi đang giữ chức Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH. Từ tháng 9/2020-7/2022, bà giữ vị trí Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh. Sau hơn 4 năm gắn bó với địa phương, bà được điều động quay trở lại Trung ương làm Bộ trưởng Y tế từ ngày 15/7/2022.

Mới đây nhất là trường hợp ông Đặng Quốc Khánh khi đang làm Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh được điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang từ 7/2019 - 5/2023.

Sau gần 4 năm làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, ông Khánh được Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường từ ngày 22/5/2023.

Phát biểu liên quan đến chủ trương này, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai từng nêu 2 câu hỏi hay gặp phải: “Bí thư là người địa phương có phải tốt hơn bí thư không phải người địa phương không? Bí thư làm Chủ tịch UBND tốt hơn hay làm Chủ tịch HĐND tốt hơn?”.

Bằng thực tiễn trong ngành tổ chức, bà Trương Thị Mai khẳng định: “Về cơ bản bí thư không phải người địa phương sẽ tốt hơn”.

Bên cạnh đó bà cũng nêu rõ, với một số nơi đặc thù, cán bộ người dân tộc thiểu số sẽ đại diện tốt nhất cho cộng đồng lớn nhất của địa bàn đó thì bí thư phải là người địa phương. Nếu bố trí bí thư không là người địa phương trong trường hợp này có khi không phù hợp.

Vì vậy, bà Trương Thị Mai lưu ý, mục tiêu của chủ trương bí thư không là người địa phương là lựa chọn cán bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín để làm bí thư cấp ủy, tránh tuyệt đối hóa, quan niệm “người khác địa phương tốt hơn người địa phương”.

Bà Mai phân tích thêm, bí thư không phải người địa phương có thể phải có thời gian tiếp cận để hiểu biết địa bàn nhưng khi về địa phương điều quan trọng là họ “phải giữ gìn”.

Bởi cán bộ, đảng viên, nhân dân ở đó họ soi vào thì cán bộ phải giữ gìn, phải khẳng định mình trưởng thành, làm việc có hiệu quả. Vì vậy, người từ nơi khác đến động lực khác so với người địa phương vì họ dễ ỷ lại "sống lâu lên lão làng".

Hơn nữa, cán bộ ở nơi khác đến thường có tư duy mới, cách nghĩ mới, lề lối mới, cách làm mới, dễ đột phá, sáng tạo.

Theo đánh giá của Ban Tổ chức Trung ương, việc luân chuyển cán bộ nói chung, thực hiện chủ trương bí thư không là người địa phương nói riêng vừa kết hợp hài hòa, nâng cao hiệu quả giữa mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ với tăng cường cán bộ cho những nơi có khó khăn gắn với quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ.

Từ đó, góp phần khắc phục một phần tình trạng cục bộ, khép kín trong công tác cán bộ và đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy, chủ tịch UBND cấp tỉnh không là người địa phương.

Chất lượng cán bộ Trung ương điều động, luân chuyển được nâng lên, đa số cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, năng lực, uy tín; nhiều cán bộ sau thời gian điều động, luân chuyển đã có sự trưởng thành rõ rệt.

Việc lựa chọn địa bàn, chức danh và chuẩn bị nhân sự điều động, luân chuyển đã gắn kết chặt chẽ với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, tình hình đội ngũ cán bộ của Trung ương, địa phương, có sự đổi mới, phối hợp hiệu quả giữa các địa phương, cơ quan, đơn vị.

Công tác điều động, luân chuyển cán bộ là khâu quan trọng để đào tạo, rèn luyện, chuẩn bị nguồn cán bộ lâu dài cho Đảng. Nhiều cán bộ sau khi được điều động, luân chuyển đã có những bước trưởng thành, đóng góp quan trọng vào thành tích chung của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Lời Tòa soạn:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 cơ bản bố trí bí thư cấp tỉnh không là người địa phương.

Đến nay, số bí thư cấp tỉnh không là người địa phương ngày càng nhiều, được lựa chọn kỹ lưỡng và chất lượng. Việc này đã mang đến luồng gió mới, góp phần đổi mới và tạo nhiều chuyển biến cho địa phương. 

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay có “bóng dáng” đậm nét của nhiều bí thư tỉnh ủy không là người địa phương. Đồng thời, nhiều cán bộ qua luân chuyển về địa phương đã trưởng thành và trở về giữ chức vụ quan trọng ở Trung ương.

Qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với một số bí thư tỉnh ủy được luân chuyển thời gian qua, VietNamNet khái quát lại kết quả bước đầu trong triển khai, thực hiện chủ trương “bí thư không là người địa phương”.

Bắt đầu cuộc trò chuyện với VietNamNet về hành trình của một bí thư không là người địa phương, ông Đỗ Đức Duy chia sẻ: “Khi về địa phương, một trong những nhiệm vụ đầu tiên tôi làm là báo cáo với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và được Bí thư Tỉnh ủy Phạm Thị Thanh Trà khi đó rất ủng hộ cho điều chỉnh quy hoạch TP Yên Bái”.

Yên Bái đã mời tư vấn Nikken Sekkei của Nhật Bản (tổ chức tư vấn nổi tiếng về quy hoạch xây dựng) phối hợp với một số chuyên gia Việt Nam lập đồ án quy hoạch TP Yên Bái đến năm 2030 định hướng 2040.

“Quy hoạch xây dựng càng dài hạn càng tốt, nếu 10 năm, 20 năm không phải điều chỉnh thì đó mới là quy hoạch thành công”, Bí thư Yên Bái chia sẻ.

Với quan điểm đó, TP Yên Bái đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng khung với các trục giao thông chính, đến nay cơ bản đã hoàn thành.

Ngày 24/9/2023 vừa qua, Yên Bái khánh thành cầu Giới Phiên, bắc qua sông Hồng, là một trong những dự án trọng điểm của Yên Bái với tổng mức đầu tư 650 tỷ. Công trình này được khởi công ngày 1/1/2022, theo dự kiến ban đầu xây dựng trong 24 tháng, nhưng chỉ sau 20 tháng đã hoàn thành và giải ngân gần 100%.

“Đây là một điển hình về giải ngân vốn đầu tư công nhanh với cách làm sáng tạo. Tỉnh đã mạnh dạn đồng ý chủ trương để chủ đầu tư ứng trước cho nhà thầu 50% giá trị gói thầu xây lắp thay vì 30% như thông lệ. Nhờ vậy, nhà thầu đã có kính phí để nhập khẩu nguyên vật liệu sớm, không bị tác động của trượt giá và hoàn thành dự án trước thời hạn”, Bí thư tỉnh Yên Bái kể.

Liệu những điểm nhấn trong quy hoạch nói chung cũng như trong xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông của Yên Bái thời gian qua có phải là minh chứng cho thấy thế mạnh của một Thứ trưởng ngành xây dựng về làm Chủ tịch rồi giữ chức Bí thư Tỉnh ủy của một địa phương, thưa ông?

Thực ra trong các nghị quyết của Đảng, từ Đại hội 11 năm 2011 đã xác định, một trong 3 đột phá chiến lược đó là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, với quan điểm đầu tư hạ tầng phải đi trước một bước, có trọng tâm, trọng điểm để tạo ra động lực phát triển.

Điều này cũng rất phổ biến ở hầu hết các địa phương và lãnh đạo các tỉnh, thành đều thấm nhuần quan điểm đó. Bất cứ địa phương nào, kể cả trên bình diện quốc gia cũng đi theo hướng đó.

Tuy nhiên, với kinh nghiệm của một người đã có nhiều năm công tác trong ngành xây dựng nên tôi thấy điều đó lại càng chính xác. Hơn nữa, theo tôi muốn đầu tư hiệu quả thì trước hết phải có quy hoạch tốt.

Đồ án quy hoạch mới mở rộng TP Yên Bái theo cách tiếp cận mới, tạo không gian phát triển sang phía hữu ngạn sông Hồng. Đồng thời, muốn xây dựng đô thị hai bên sông thì phải bắc cầu. Cho nên tại sao tính theo đường chim bay từ cầu Yên Bái xuống chỉ hơn 7km, thành phố lại có tới 5 cây cầu.

Hồi trước cũng có quan điểm cho rằng đầu tư như vậy có lãng phí. Nhưng khi công bố đồ án quy hoạch, thể hiện không gian phát triển đô thị theo các trục giao thông qua 3 cây cầu xây mới gần đây cùng với 2 cây cầu có sẵn trước đó thành 5 trục phát triển đô thị thì mọi người rất đồng tình, ủng hộ.

Bởi nhà nước bỏ ra 1.000 tỷ đồng đầu tư hạ tầng thì sẽ thu hút vốn đầu tư tư nhân nhiều nghìn tỷ đồng.

Như thế “tự đô thị sẽ nuôi đô thị” và tự đô thị sẽ tạo ra sự tăng trưởng, còn nhà nước chỉ đầu tư hạ tầng khung như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường chỉ đạo là “lấy đầu tư công để dẫn dắt, thu hút đầu tư tư”.

Với đồ án quy hoạch như vậy, định hướng phát triển TP Yên Bái trong thời gian tới là gì, thưa ông?

TP Yên Bái được xác định là đô thị trung tâm, động lực phát triển về kinh tế cũng như là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh và là đô thị động lực không chỉ của tỉnh mà còn là một trong các đô thị động lực của cả vùng.

Từng góc phố chỗ nào có đất trống, chúng tôi đều làm công viên hoặc tiểu công viên. Phía sau những dãy phố vẫn có rừng cây để phát triển không gian đô thị theo mô hình “phố trong rừng, rừng trong phố”, tỷ lệ diện tích cây xanh và mặt nước cao hơn rất nhiều so với quy chuẩn chung. Khi đầu tư xây dựng công trình chúng tôi luôn tôn trọng thiên nhiên, địa thế và chỉ có tăng thêm cây xanh, hồ nước chứ không có lấp đi hay thay bằng bê tông cốt thép.

Từ đồ án quy hoạch tốt thì sẽ thu hút được nhà đầu tư tốt và khi có các dự án tốt thì đô thị mới đảm bảo chất lượng, và chắc chắn với Yên Bái 20-30 năm nữa sẽ không có chuyện tắc đường, kẹt xe.

Tới đây, bên hữu ngạn sông Hồng, tỉnh đã quy hoạch và sẽ phê duyệt chủ trương, lựa chọn nhà đầu tư vào đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp và đây là khu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Yên Bái do tư nhân đầu tư chứ không phải nhà nước đầu tư…

Có thể nói, nhiệm kỳ trước và nhiệm kỳ này là hai nhiệm kỳ mà phát triển kết cấu hạ tầng của Yên Bái thực sự là bước đột phá. Từ đột phá trong phát triển hạ tầng tạo ra động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội.

Nếu trong những năm tới kinh tế - xã hội phục hồi thì chắc chắn Yên Bái sẽ là một trong những địa phương có sự bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội so với các nhiệm kỳ trước.

Trả lời VietNamNet khi vừa trúng cử chức Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái 3 năm trước, ông có nêu khó khăn của một bí thư không phải là người địa phương là nắm bắt cơ sở. Vậy từ đầu nhiệm kỳ đến nay, ông vượt qua khó khăn này như thế nào?

Rõ ràng với một cán bộ luân chuyển không phải là người địa phương, nhất là ở các địa phương miền núi, địa hình chia cắt, địa bàn rộng thì không có cách gì khác là phải dành nhiều thời gian để đi cơ sở.

Với Yên Bái, từ năm 2019, chúng tôi đã bắt đầu triển khai mô hình “ngày cuối tuần cùng dân và doanh nghiệp”. Đến nay, mô hình này đã được Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành thành kế hoạch hành động.

Theo đó, từ Bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí trong Thường trực Tỉnh ủy đến phó giám đốc sở, ngành, đại biểu HĐND đều dành thời gian đi về cơ sở. Trong đó, Bí thư Tỉnh ủy tối thiểu 1 quý phải có 2 lần.

Ngoài ra, cùng với các cuộc tiếp xúc cử tri, kiểm tra các dự án, công trình trọng điểm, kiểm tra triển khai các nghị quyết, dự sinh hoạt với các chi bộ cơ sở ở thôn bản, tổ dân phố, doanh nghiệp cũng là dịp để tôi về với dân.

Nhờ đi cơ sở nhiều, tôi hiểu được điều kiện tự nhiên, địa hình, hạ tầng, khí hậu, thổ nhưỡng của các vùng, miền trong tỉnh để biết được đâu là tiềm năng, đâu là thế mạnh trong phát triển các ngành, lĩnh vực, các địa phương…

Từ đó có thêm thông tin và cơ sở thực tiễn để đưa vào các quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH sát với điều kiện địa phương.

Tức là phải biết tỉnh có điều kiện thuận lợi, có khó khăn, trở ngại gì để đưa ra định hướng phát triển sát với thực tiễn.

Hơn nữa, đi cơ sở tôi hiểu về đời sống của bà con, phong tục tập quán, thói quen canh tác, bản sắc văn hóa, kể cả những hủ tục lạc hậu để khi thiết kế chính sách bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, miền.

Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ biết nghị quyết, chính sách đi vào cuộc sống thế nào, có gì bất cập không để điều chỉnh, bổ sung kịp thời.

Đặc biệt, khi về với dân sẽ tạo nên sự gắn kết và củng cố lòng tin của người dân với lãnh đạo và chính quyền. Họ cảm thấy cán bộ không quan liêu, không xa rời dân, nhất là khi lãnh đạo có những lời hứa, cam kết và thực hiện đúng lời hứa thì tự nhiên lòng tin của người dân được nhân lên rất lớn.

Trong quá trình “về với dân”, chắc hẳn ông có nhiều kỷ niệm đáng nhớ?

Kỷ niệm thì nhiều lắm. Tôi nhớ thời điểm tháng 7/2020, khi còn làm Chủ tịch UBND tỉnh, để làm kế hoạch đầu tư công cho nhiệm kỳ này cần đi khảo sát các huyện thị.

Lúc đó lên huyện Lục Yên, tuyến đường liên xã Tân Lĩnh – Minh Chuẩn dài 13km rất lầy lội, đi lại vô cùng khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa lũ, nhiều khi các cháu học sinh phải nghỉ học, không đến trường được. Vì vậy bà con rất mong muốn và cá nhân tôi cũng thấy cần thiết phải đầu tư tuyến đường này, nhưng để nhanh, hiệu quả thì phải làm tốt công tác giải phóng mặt bằng.

Lúc tôi về đó, bà con đứng đón 2 bên đường và kiến nghị tỉnh quan tâm đầu tư tuyến đường vì “bà con khổ quá rồi”. Tôi lắng nghe, trao đổi, chia sẻ và cũng nêu rõ quan điểm của tỉnh là do nguồn lực đầu tư có hạn, trong khi nhu cầu đầu tư rất lớn nên sẽ ưu tiên cho các dự án giải phóng mặt bằng thuận tiện. Nếu tuyến đường này, bà con 2 xã đồng thuận ủng hộ “giải phóng mặt bằng 0 đồng”, đường tới đâu, hiến đất tới đó để bàn giao mặt bằng cho nhà nước thì tôi cam kết ưu tiên bố trí nguồn vốn sớm nhất. Nghe vậy, bà con đồng ý giải phóng mặt bằng 0 đồng ngay.

Đúng 1 năm sau, khi tôi là Bí thư Tỉnh ủy trở lại dự khởi công tuyến đường đó và mời các hộ hiến nhiều đất lên để tuyên dương trao quà tặng của tỉnh, tuy giá trị món quà không lớn nhưng bà con rất phấn khởi.

Tôi nhắc lại đây là dự án tiêu biểu “giải phóng mặt bằng 0 đồng” và đề nghị các xã khác coi đó là một điển hình trong công tác dân vận, giải phóng mặt bằng để về triển khai nhân rộng.

Trong những lần đi cơ sở như vậy, không ít dịp người dân đón tôi ở dọc đường và nhiều bà con thẳng thắn chia sẻ với tôi “đường làm tới đâu là nhà tôi hiến đất tới đó”.

Có bà con phấn khởi làm thơ tặng bí thư nghe, có người tặng con dao đi rừng (một vật dụng rất quý với người dân tộc Tày và Nùng để thể hiện sự mạnh mẽ).

Mới đây, khi đi tiếp xúc cử tri, bà con lại mời tôi đi khảo sát 1 tuyến đường khác, tự động kẻ vạch ranh giới hiến đất trên tường rào, hoặc trước cửa nhà mình để làm đường với cam kết: “Nếu như hôm nay bí thư tuyên bố cho triển khai đầu tư tuyến đường này thì ngày mai bà con chúng tôi tháo dỡ, dịch rào, chặt cây hiến đất luôn”.

Có những huyện như Văn Yên sau đó khởi công tuyến đường đi qua trung tâm 4 xã, dài 22km cũng vận động bà con giải phóng mặt bằng 0 đồng. Đây là vùng trồng quế nên giá trị đất cao hơn các vùng khác nhưng có hộ cũng sẵn sàng hiến đất đồi quế với cả ngàn cây quế chưa đến kỳ thu hoạch, có người hiến 600m đất ở...

Bây giờ Yên Bái có phong trào giải phóng mặt bằng 0 đồng, rất hiệu quả. Từ huyện Lục Yên, đến nay mô hình này lan tỏa ra toàn tỉnh. Yên Bái có nhiều tuyến đường xã rộng thênh thang như quốc lộ nhờ vào mô hình này.

Yên Bái là một tỉnh miền núi hay bị mưa lũ, sạt lở đất, lãnh đạo tỉnh Yên Bái nói chung và Bí thư Tỉnh uỷ nói riêng đã chia sẻ với bà con bị thiệt hại thế nào và làm gì để ngày càng hạn chế tổn thất?

Đấy cũng là một khó khăn, thách thức của tỉnh Yên Bái chúng tôi. Về đây hơn 6 năm tôi chứng kiến rất nhiều trận lũ lịch sử, để lại cho tôi sự xúc động lớn bởi nhiều kỷ niệm gắn bó với bà con.

Trong đó phải kể đến trận lũ lịch sử cuối tháng 7/2018 xảy ra ở bản Lùng, xã Phong Du Thượng, huyện Văn Yên - nơi bà con người Tày, người Dao, người Thái, người Mông sống quây quần, gắn bó từ bao đời.

Sau một trận lũ, nơi đây tan hoang thành một bãi đá, nhà cửa sập trôi hết, rất may là không ai thương vong. Lúc đó, có anh Ngô Văn Minh – người đồng bào Tày cũng là Bí thư chi bộ, Trưởng thôn đã gương mẫu hiến 2.000m đất trồng ngô để làm khu tái định cư cho bà con và vận động bà con xung quanh cùng hiến đất.

Có đất rồi, tôi về Thủ đô vận động Hội Chữ thập đỏ Hà Nội hỗ trợ cho bà con 1,5 tỷ đồng xây 50 căn nhà, mỗi căn 30 triệu đồng (cùng với nguồn hỗ trợ của tỉnh và của cộng đồng khoảng 40-50 triệu đồng) cho bà con xây nhà tái định cư. Đồng thời vận động doanh nghiệp đến hỗ trợ san mặt bằng.

Sau 1 tháng đã giải phóng, san tạo mặt bằng được 68 nền đất, trong đó tặng lại cho 17 hộ hiến đất mỗi hộ 1 nền, còn lại 51 nền bàn giao cho bà con mất nhà để xây nhà tái định cư. Sau 4 tháng đã hoàn thành xây dựng nhà tái định cư cả bản.

Đặc biệt, ngày 17/11/2021 tôi trở lại bản Lùng dự ngày hội Đại đoàn kết toàn dân thì thật bất ngờ, nơi đây đã trở thành thôn nông thôn mới rất tươi đẹp. Một sự hồi sinh kỳ diệu sau thiên tai bão lũ, không ai còn nhận ra bãi đá trơ trụi của năm trước giờ trở thành nơi trù phú, con đường đi giữa bản là đường bê tông 2 bên trồng hoa, rất xinh đẹp và đầm ấm.

Tận mắt chứng kiến sự hồi sinh của bản Lùng, khi lên phát biểu tôi rất xúc động và cũng rất bất ngờ khi được bà con tặng 1 chiếc áo của đồng bào Tày. Mặc chiếc áo của đồng bào, tôi cùng bà con ăn cơm, vui chơi, múa hát rất xúc động.

Đó cũng là sự kết tinh, hòa quyện giữa ý Đảng với lòng dân. Cấp ủy, chính quyền nỗ lực quan tâm chăm lo cho người dân và người dân thì đồng tình, ủng hộ cùng với cấp ủy, chính quyền xây dựng cuộc sống mới.

Tôi nhớ mãi một câu người dân ở đó chia sẻ rất chân tình: “Cha ông chúng tôi đã sinh sống, gắn bó nhiều đời với nơi này. Chúng tôi chỉ muốn được tái thiết lại cuộc sống trên chính mảnh đất, quê hương mình, không muốn phải di dời đi chỗ khác”.

Đấy là một trong những thành quả khắc sâu trong tôi khi ở Yên Bái, những ngày đi trong lũ cùng bà con vượt qua bao nhiêu khó khăn và quay trở lại để thấy sự hồi sinh ngoài sức tưởng tượng.

Khi nghe những câu chuyện gắn bó với dân, với đồng bào ở Yên Bái, chắc hẳn không ai còn nghĩ ông là “bí thư không phải người địa phương”. Vậy, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Đỗ Đức Duy của hơn 6 năm trước với Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Đỗ Đức Duy bây giờ có gì khác biệt thưa ông?

Nếu nói sự khác biệt thì tôi dùng từ “mình trưởng thành hơn”. Đúng là tôi trưởng thành hơn rất nhiều. Trước đây khi làm Thứ trưởng Bộ Xây dựng thì tôi có tư duy quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô và cũng hiểu sâu sắc về ngành, nhưng đến nay sau hơn 6 năm về làm Chủ tịch rồi Bí thư Yên Bái thì rõ ràng tôi học thêm được rất nhiều điều từ thực tiễn công tác.

Thứ nhất, về kiến thức kinh tế, xã hội, dưới góc độ xây dựng và phát triển một địa phương, về bản sắc văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số,… tôi không thể tưởng tượng sau từng ấy năm mình đã tích lũy được nhiều kiến thức như thế. Chính bản thân mình cũng bất ngờ về điều này, cứ tự nhiên mọi thứ ngấm vào trong người mình.

Thứ hai, về công tác tại địa phương còn giúp cho tôi hoàn thiện tư duy và tầm nhìn trong vai trò lãnh đạo, quản lý. Từ kiến thức được bổ sung nhiều, tư duy của mình cũng khác đi, có những sự đổi mới, phải sát với thực tiễn, linh hoạt với từng thời điểm, từng giai đoạn, với trình độ phát triển của mỗi địa phương, vùng miền. Tầm nhìn khi đưa ra các quyết định lãnh đạo, chỉ đạo cũng khác xa rất nhiều, dài hạn hơn, toàn diện hơn.

Tôi vẫn hay nói “Yên Bái bây giờ biết là mình đang đứng ở đâu trong không gian phát triển của vùng, của quốc gia”. Mình định vị được mình, có cái gì, thiếu cái gì, hướng tới đâu và làm thế nào mình đạt được mục tiêu đó. Rõ ràng tầm nhìn của mình sâu sắc, toàn diện và dài hạn hơn.

Khi mình thấu hiểu với bà con nhân dân, với địa phương thì các quyết định của mình chính xác hơn, khả thi hơn, bao trùm hơn.

Ở đây có tài nguyên rừng, cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái, và nhất là bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc. Đối với cá nhân tôi coi đấy là nguồn tài nguyên, tài sản vốn quý để trong các chính sách phát triển Yên Bái phải luôn luôn đồng thời với bảo tồn, phát huy giá trị các nguồn tài nguyên quý giá này, và người dân phải được thụ hưởng xứng đáng thành quả của sự phát triển đó. Cho nên tại sao Yên Bái đưa ra triết lý phát triển “xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc” là như vậy…

Từ những gì ông nói có thể thấy chủ trương “bí thư không là người địa phương” giống như một trường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý?

Chính xác. Đây là một trường học để đào tạo cán bộ và quan trọng nhất trong môi trường đào tạo đó, hiệu quả đạt được phụ thuộc rất nhiều vào người học lựa chọn cho mình phương pháp như thế nào trong lãnh đạo, chỉ đạo, cũng như trong tiếp cận thực tiễn.

Qua đây tôi hiểu thêm về bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả trên nhiều mặt, vẫn còn bộ phận bà con còn nghèo, nhưng ngược lại bà con luôn luôn tin yêu theo Đảng, vẫn tin tưởng vào sự quản lý, điều hành của chính quyền.

Trên thực tế, có việc này, việc khác hoặc là mình làm chưa hết trách nhiệm, hoặc là mình làm chưa đúng cách, hoặc chủ trương chính sách mình đưa ra chưa thật sự phù hợp và đương nhiên cũng có cả những nguyên nhân khách quan từ những khó khăn nội tại của một địa phương miền núi, ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc. Nhưng qua đó cũng giúp cho tôi có thêm bài học kinh nghiệm và động lực để nỗ lực nhiều hơn, cố gắng nhiều hơn để đạt được kết quả tốt hơn trong công tác.

Qua thời gian như thế, dù tôi có tiếp tục đảm nhiệm chức trách hiện tại hay do sự phân công của tổ chức có thể chuyển sang làm công việc khác, nhưng chắc chắn những kiến thức, kinh nghiệm tích lũy được trong thời gian công tác tại địa phương sẽ giúp tôi rất nhiều cho quá trình công tác tiếp theo của mình.

Lời Tòa soạn:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 cơ bản bố trí bí thư cấp tỉnh không là người địa phương.

Đến nay, số bí thư cấp tỉnh không là người địa phương ngày càng nhiều, được lựa chọn kỹ lưỡng và chất lượng. Việc này đã mang đến luồng gió mới, góp phần đổi mới và tạo nhiều chuyển biến cho địa phương. 

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay có “bóng dáng” đậm nét của nhiều bí thư tỉnh ủy không là người địa phương. Đồng thời, nhiều cán bộ qua luân chuyển về địa phương đã trưởng thành và trở về giữ chức vụ quan trọng ở Trung ương.

Qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với một số bí thư tỉnh ủy được luân chuyển thời gian qua, VietNamNet khái quát lại kết quả bước đầu trong triển khai, thực hiện chủ trương “bí thư không là người địa phương”.

“Thái Bình đón tôi như mối lương duyên định mệnh. Trao cho tôi một tình yêu mà ở đó khó khăn cũng không ít nhưng thuận lợi cũng nhiều”, ông Ngô Đông Hải chia sẻ với VietNamNet câu chuyện của một Bí thư Tỉnh ủy không là người địa phương.

Ông Ngô Đông Hải sinh ngày 25/10/1970; quê xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định; trình độ chuyên môn: Tiến sĩ Điện tử-Viễn thông, Cử nhân Kinh tế.

Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa 11 (dự khuyết), 12 (dự khuyết), 13; Đại biểu Quốc hội khóa 15, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình.

Khi đang giữ chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh kiêm Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Bình Định, ông được luân chuyển ra Trung ương làm Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương từ tháng 3/2016.

Ngày 28/9/2018, Bộ Chính trị luân chuyển, chỉ định ông giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thái Bình.

Tháng 6/2020, ông được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình giới thiệu và Bộ Chính trị chỉ định giữ chức Bí thư Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020.

Tháng 10/2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình khóa 20, ông được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh bầu làm Bí thư Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025.

Cũng như nhiều Bí thư Tỉnh ủy không là người địa phương khác, một cán bộ ở xa về ban đầu chưa thể hiểu hết đất, hết người và cả những tồn tại đang bám rễ, đan xen của địa phương. Điều đó đòi hỏi ông Ngô Đông Hải hay bất cứ nhân sự nào về Thái Bình lúc đó đều phải đủ bản lĩnh để đảm nhận sứ mệnh mới, vượt qua mọi trở ngại bằng trách nhiệm, sự tâm huyết và chính năng lực của bản thân.

Để giúp tỉnh Thái Bình chuyển mình, thu hút đầu tư, thoát khỏi trì trệ, vươn lên thành vùng công nghiệp mới của khu vực Đồng bằng sông Hồng đòi hỏi ở người đứng đầu cấp ủy của tỉnh một cuộc “lột xác” trong công tác lãnh đạo, điều hành.

Sự trông chờ đó, qua 5 năm đã được đền đáp. Bí thư Tỉnh ủy Ngô Đông Hải cùng Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình và các cấp ủy đảng đã tạo ra sự thay da đổi thịt trên quê hương “5 tấn”. Thái Bình từ vùng đất thuần nông đã trở thành nơi có chính sách thu hút đầu tư công nghiệp, nông nghiệp chất lượng cao hấp dẫn, cạnh tranh trực tiếp với các địa phương lớn lân cận trong khu vực như Hải Phòng, Hải Dương…

Những nghị quyết của Đảng bộ tỉnh đã biến thành chương trình hành động cụ thể bởi các chính sách đúng đắn, quyết liệt với làn gió mới. Thái Bình đã cởi “chiếc áo cũ mang tên thuần nông”, khoác lên trên mình sắc phục đa dạng thể hiện được sự thích ứng, hiện đại trong bối cảnh kinh tế toàn cầu.

Điều này được thể hiện rõ qua việc các nhà đầu tư lớn thành công ở Hải Phòng và Hải Dương đã chuyển dịch sang Thái Bình đầu tư mở rộng, bước đầu đem lại hiệu quả tích cực.

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa 20, Thái Bình khởi động tham vọng làm khu công nghiệp lớn nhất từ trước tới nay.

Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình Ngô Đông Hải kể, lúc đó, dư luận đặt nhiều nghi vấn về tính khả thi của khát vọng này. Từ một tỉnh thuần nông, kinh tế manh mún, hạ tầng giao thông hạn hẹp, Thái Bình muốn cạnh tranh với các tỉnh, thành lân cận đã phát triển lâu như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên là điều dễ bị cho là “nổ”, là hô khẩu hiệu.

“Vượt lên trên sự nghi ngại, tập thể Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã xem đây là động lực để vượt qua các áp lực, khó khăn.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã định hướng rất cụ thể để biến giấc mơ xây dựng tỉnh phát triển công nghiệp của khu vực Đồng bằng sông Hồng”, ông Ngô Đông Hải nhớ lại.

Trong từng giai đoạn, Thái Bình đề ra các kế hoạch chi tiết để hướng tới mục tiêu tổng quát. Việc đề ra, địa phương nỗ lực thực hiện bằng được và tạo ra các kết quả cụ thể.

Lần từng bước cẩn trọng, kiên trì, mạnh mẽ trên con đường khó đang chọn, tỉnh Thái Bình đã chạm tới khát vọng của mình. Dẫn chứng, sau 2 năm đi vào hoạt động, Khu công nghiệp Liên Hà Thái (nằm trên địa bàn huyện Thái Thụy) thu hút được 9 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 1 dự án đầu tư trực tiếp trong nước (DDI), với tổng vốn đầu tư 754 triệu USD, quy mô mặt bằng gần 600 ha.

Theo lãnh đạo Khu công nghiệp Liên Hà Thái, đơn vị đã đạt 98% mặt bằng sạch trên tổng diện tích đất phải thu hồi, tạo nên kỳ tích giải phóng mặt bằng của một dự án công nghiệp lớn chưa từng có ở Thái Bình. Kỳ tích này có được là nhờ sự quyết liệt của những người đứng đầu Đảng bộ và chính quyền tỉnh.

Bí thư Thái Bình chia sẻ tin vui, hiện nay, địa phương đang đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng để triển khai xây dựng hạ tầng, thu hút các nhà đầu tư thứ cấp vào KCN  Hải Long, KCN VSIP Thái Bình; lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án nhà máy nhiệt điện LNG và các thủ tục thành lập Khu công nghiệp Dược - Sinh học...

Theo ông Ngô Đông Hải, để biến giấc mơ thành hiện thực là cả một chặng đường dài, không thể hoàn tất trong một nhiệm kỳ 5 năm ngắn ngủi.

“Thái Bình đang tận dụng từng thời khắc, từng cơ hội và sự ủng hộ của Trung ương, nhân dân trong tỉnh để thực hiện chủ trương lớn sớm ngày nào thì người Thái Bình sẽ chạm tay vào ước mơ, khát vọng sớm ngày đó”, ông Hải kỳ vọng.

Đến thời điểm này, Thái Bình đã có sự thay đổi lớn lao về tư duy phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện, đã khơi dậy mạnh mẽ được giá trị vốn có của tỉnh.

Nhờ chiến lược rõ ràng, chỉ trong hơn 2 năm, bắt đầu từ khâu giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng, xây dựng đội ngũ cán bộ,… Thái Bình đã thu hút hơn 1,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài.

Đây là một điều thần kỳ, một kết quả chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế của địa phương.

Để làm được điều này không thể thiếu sự “chèo lái” vững vàng, khéo léo của Bí thư Tỉnh ủy, trước hết là trong công tác tổ chức bộ máy, bởi công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”.

Vì vậy, ngay từ khi mới về, ông Ngô Đông Hải đã đặc biệt quan tâm đến công tác này.

“Tôi may mắn được các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đặc biệt là các cán bộ lão thành cách mạng ở đây ủng hộ, cổ vũ trong việc bố trí, sắp xếp lại nhân sự cho nhiệm kỳ mới”, Bí thư Thái Bình chia sẻ.

Ông cũng nhìn nhận, thời gian đầu làm việc này khá vất vả nhưng cho đến nay thì có thể được xem là “có được quả ngọt”.

Muốn đạt được kết quả, theo ông Hải, công tác cán bộ phải đảm bảo công khai, minh bạch, chọn đúng người, đúng vị trí, tạo sự thống nhất cao.

“Cái gì đúng thì mình ủng hộ, cái gì chưa hợp lý phải có chính kiến, thuyết phục dần dần dựa trên nguyên tắc có lợi cho sự nghiệp chung. Nếu có quan điểm trái với lợi ích tập thể thì phải kiên quyết thay đổi, tuyệt đối không xét đến yếu tố quan hệ thân quen”, ông Ngô Đông Hải thẳng thắn nói.

Trước khi ra Ban Kinh tế Trung ương nhận nhiệm vụ vào tháng 3/2016, ông Hải đã có thời gian công tác tại tỉnh Bình Định, đây cũng là cơ hội giúp ông có nhiều kinh nghiệm tích lũy, bài học thực tiễn, trở thành hành trang quý giá để có thể vững “tay lái” cho đợt đi luân chuyển tại Thái Bình.

 “Tôi đã xác định rõ động cơ rất vững vàng rằng đi về địa phương là nhận nhiệm vụ với Đảng và nhân dân. Tôi luôn tâm niệm một lòng là hoàn thành nghĩa vụ Đảng giao, bằng tất cả tâm khảm, trách nhiệm, khát vọng của mình”, ông Ngô Đông Hải khẳng định.

Xác định rõ nhiệm vụ khi về làm Bí thư Thái Bình, ông Ngô Đông Hải đã chọn tầm nhìn dài hạn trong các quyết sách cũng như trong quá trình chỉ đạo, điều hành.

Vì vậy, tất cả mục tiêu tỉnh đặt ra đều có tầm nhìn dài hạn và được bàn bạc trao đổi kỹ trong tập thể để cùng nhau đồng lòng cụ thể hoá bằng kế hoạch cụ thể. Điều đó thể hiện xuyên suốt từ văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh, từ đầu nhiệm kỳ cho đến nay.

Thời gian qua, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã quy tụ được sức mạnh tập thể, huy động được sự đồng lòng của quần chúng nhân dân hướng đến sự phát triển lâu dài, bền vững cho địa phương.

“Tôi đã không né tránh bất cứ khó khăn, gian khổ nào trong suốt 5 năm qua và đến nay, vẫn vẹn nguyên khát vọng, tâm huyết như ngày mới bước chân về Thái Bình”, ông Ngô Đông Hải chia sẻ.

Bí thư Tỉnh ủy Ngô Đông Hải nắm tay người dân cùng hát ca trong Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại Thái Bình.

Bí thư Thái Bình bày tỏ vui mừng khi 5 năm qua đã giúp ông “giàu có” lên về kiến thức, thực tiễn, tư duy.

“Gắn bó với Thái Bình, tôi thu lượm, gặt hái và trưởng thành hơn với những giá trị của con người nơi đây mà không thể đo đếm được bằng con số. Đến bây giờ, điều tôi cảm thấy vui, mãn nguyện nhất là thành quả của mỗi bước đi, trưởng thành phát triển của tỉnh Thái Bình”, ông Ngô Đông Hải nói.

5 năm gắn bó với vùng đất lúa, ông Ngô Đông Hải không ngần ngại bày tỏ tình yêu với nơi đây “như yêu chính quê hương mà ba, mẹ sinh tôi ra”.

“Tôi khát khao được cùng người Thái Bình vươn ra biển lớn, đem lại sự giàu có cho vùng đất này”, Bí thư Tỉnh ủy Ngô Đông Hải trăn trở.

Lời Tòa soạn:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 cơ bản bố trí bí thư cấp tỉnh không là người địa phương.

Đến nay, số bí thư cấp tỉnh không là người địa phương ngày càng nhiều, được lựa chọn kỹ lưỡng và chất lượng. Việc này đã mang đến luồng gió mới, góp phần đổi mới và tạo nhiều chuyển biến cho địa phương. 

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay có “bóng dáng” đậm nét của nhiều bí thư tỉnh ủy không là người địa phương. Đồng thời, nhiều cán bộ qua luân chuyển về địa phương đã trưởng thành và trở về giữ chức vụ quan trọng ở Trung ương.

Qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với một số bí thư tỉnh ủy được luân chuyển thời gian qua, VietNamNet khái quát lại kết quả bước đầu trong triển khai, thực hiện chủ trương “bí thư không là người địa phương”.

Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải dành cho VietNamNet cuộc trò chuyện với nhiều trải nghiệm của một “nữ Bí thư Tỉnh ủy không là người địa phương”.

Gần 4 năm làm Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên, bà có thể chia sẻ đôi điều suy nghĩ của một Bí thư Tỉnh ủy không là người địa phương?

Trước tiên phải nói, với trải nghiệm của bản thân từ một cán bộ công tác nhiều năm ở các cơ quan của Trung ương về công tác tại địa phương gần 4 năm qua, tôi thấy hết sức thấm thía về tính cần thiết, tính hiệu quả của chủ trương luân chuyển, điều động cán bộ nói chung và việc bố trí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy không là người địa phương nói riêng.

Có thể khẳng định đây là một chủ trương hết sức quan trọng, đúng đắn, đặc biệt nhận được sự ủng hộ, đồng thuận cao của người dân và toàn xã hội.

Việc này cũng nhằm hiện thực hóa Nghị quyết số 26/2018, Trung ương 7 khóa 12 “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Qua việc thực hiện chủ trương này đã góp phần tạo sự đổi mới mang tính đột phá, bứt phá trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở từng địa phương. Đồng thời cũng góp phần đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện bản lĩnh, năng lực, phẩm chất, đặc biệt là trang bị những kinh nghiệm thực tiễn dồi dào, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu trước những khó khăn thử thách cho đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cấp chiến lược nói riêng.

Ngày 20/5/2020, tôi được Bộ Chính trị điều động, phân công, chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên nhiệm kỳ 2015-2020 và tái đắc cử sau đó tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 20 nhiệm kỳ 2020 - 2025.

Kể từ giờ phút đó, tôi luôn ý thức được rằng, đây là vinh dự to lớn nhưng cũng là trọng trách hết sức lớn lao trước Đảng, trước đồng bào và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy, tôi luôn tự nhủ với mình rằng sẽ toàn tâm, toàn ý với Thái Nguyên thân yêu kể từ đây.

Có thể khẳng định rằng, tại thời điểm năm 2020, Thái Nguyên đã có một vị thế vững vàng trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng và của cả nước, đã thu hút được những nhà đầu tư FDI rất lớn như Samsung, đã có một hệ thống giao thông khá tốt và thuận lợi, hệ thống giáo dục, y tế đồng bộ,…

Đây là thành quả của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo của tỉnh trong suốt nhiều năm đã vun đắp mà chúng tôi - những cán bộ lãnh đạo của nhiệm kỳ này- may mắn được kế thừa.

Nhiệm vụ của tôi và tập thể thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy là tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết nhất trí để cùng phát huy hết tiềm năng thế mạnh của tỉnh, những thành quả của các thế hệ đi trước để lại, cùng đưa Thái Nguyên ngày càng phát triển lên một tầm cao mới.

Vậy Bí thư Nguyễn Thanh Hải bây giờ như thế nào so với cách đây gần 4 năm, thưa bà?

Tôi so với trước đây gần 4 năm thì vẫn vậy thôi, vẫn nhiệt huyết, khát vọng cống hiến nhưng có thể nói là tôi đã trưởng thành, cứng cỏi, rắn rỏi hơn rất nhiều (cười).

Có thể nói, thấm thoắt gần 4 năm đã trôi qua, với sự yêu thương, đùm bọc, cảm thông, tin tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên dành cho một nữ Bí thư Tỉnh ủy xa nhà; với tinh thần cầu thị, khiêm tốn, học hỏi, lắng nghe, tôi cùng tập thể lãnh đạo tỉnh đã đoàn kết một lòng trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai những nhiệm vụ được giao.

Đến nay, chúng tôi đã gặt hái được một số kết quả rất đáng khích lệ trong phát triển kinh tế xã hội thời gian qua.

Người xưa có câu “đi một ngày đàng, học một sàng khôn” mà tôi đã được về với Thái Nguyên, lăn lộn với thực tiễn ở cơ sở gần 4 năm rồi thì chắc sẽ học được không biết bao nhiêu là ‘sàng khôn’ như người xưa đã ví (cười).

Nói thế để thấy tôi đã học được và tích lũy được cho mình khá nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn, những bài học cực kỳ quý báu mà không một trường lớp nào dạy hết được.

Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn tới Bộ Chính trị, với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tin tưởng giao trọng trách cho tôi về công tác tại Thái Nguyên.

Nhờ vậy, tôi có điều kiện nắm bắt tình hình cơ sở, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong lãnh đạo, điều hành. Việc sâu sát, gắn bó, lăn lộn với cơ sở đã giúp tôi trưởng thành lên rất nhiều.

Sinh ra và lớn lên tại Thủ đô Hà Nội lại được về công tác tại Thủ đô Kháng chiến, Thủ đô “Gió ngàn” năm xưa, tôi thấy mình thực sự có duyên với mảnh đất cách mạng này.

Một cách tự nhiên, không biết tự bao giờ tôi đã luôn nghĩ mình là một người con của Thái Nguyên và sẽ nỗ lực cống hiến cùng tập thể lãnh đạo tỉnh và đồng bào nhân dân các dân tộc trong tỉnh vì một Thái Nguyên luôn “bình yên, hạnh phúc, sung túc và ngày càng phát triển”, xây dựng nơi đây sớm trở thành một trung tâm kinh tế - công nghiệp lớn, hiện đại không những của vùng Trung du miền núi phía Bắc mà còn của vùng Thủ đô vào năm 2030.

Theo bà, cái khó của một Bí thư Tỉnh ủy không là người địa phương là gì?

Theo tôi, Bí thư Tỉnh ủy không là người địa phương vừa có cái khó nhưng cũng có những cái dễ.

Tôi cho rằng, cái gì mới cũng đều chứa đựng cả cơ hội, tiềm năng và rủi ro, thách thức tiềm ẩn. Trước khi về công tác ở địa phương, tôi công tác trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xây dựng pháp luật,…

Khi về công tác tại Thái Nguyên, một lĩnh vực công tác rất mới, toàn diện tổng quát, lãnh đạo chỉ đạo toàn bộ các lĩnh vực của một địa phương trong khi mình chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn thì chắc hẳn ai cũng lo lắng.

Là cán bộ từ Trung ương về địa phương không chỉ riêng tôi mà có lẽ nhiều đồng chí khác cũng cần có thời gian để tìm hiểu cơ sở, nắm được những thuận lợi và đặc biệt là những khó khăn, thách thức, những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cho địa phương cần tháo gỡ.

Ngoài ra, đi cơ sở nhiều đã giúp tôi thấu hiểu được tâm tư, tình cảm của đội ngũ cán bộ và những kỳ vọng, mong mỏi của người dân địa phương. Từ đó, tôi cùng lãnh đạo tỉnh đề ra phương hướng để giải quyết những vấn đề chung cũng như các giải pháp để giải quyết những vụ việc, vấn đề cụ thể.

Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn vì chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, chưa hiểu hết được các vấn đề của từng địa bàn, cơ sở, tôi thấy mình cũng có những điều khá thuận lợi.

Đó là những tích lũy, kinh nghiệm về xây dựng pháp luật, về tập hợp, giám sát việc giải quyết các tâm tư nguyện vọng của cử tri toàn quốc ở mọi lĩnh vực, trong suốt thời gian 2 nhiệm kỳ tôi công tác ở Quốc hội (Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục, Trưởng Ban Dân nguyện) trong đó có gần 1 nhiệm kỳ là Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.  

Chính vì vậy, với kinh nghiệm đã tích lũy, khi về công tác tại Thái Nguyên, tôi đã rất quan tâm và tìm nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân. Tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu tài liệu, hồ sơ, đơn thư của công dân trước khi tiếp; ứng dụng chuyển đổi số, số hóa các tài liệu, hình ảnh…

Trước mỗi vụ việc, tôi đều tổ chức họp lắng nghe ý kiến tham mưu của tổ giúp việc, của các cơ quan chức năng, chuyên môn về phương án giải quyết, xử lý dứt điểm vụ việc trước mỗi lần tiếp công dân.

Việc trực tiếp tiếp công dân đều đặn hàng tháng cho tôi thấy, đây là công việc rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn đó là công tác chuẩn bị trước khi tiếp công dân. Nếu chuẩn bị tốt thì chất lượng tiếp công dân sẽ được nâng cao rất nhiều và nhiều vụ việc sẽ được giải quyết thấu đáo, đúng pháp luật và nhận được sự đồng thuận của người dân.

Gần 4 năm qua, tôi đã tiếp công dân đến nay được 44 buổi với 44 vụ việc khác nhau, đến nay đã có 39 vụ việc được giải quyết xong, còn 5 vụ việc đang trong thời hạn giải quyết đến 31/12/2023.

Với tôi, mỗi ngày tiếp công dân mỗi tháng, thường là một ngày tôi cảm thấy rất vui vì có một sự việc (nhiều khi đã kéo dài hàng chục năm) đến nay đã được giải quyết dứt điểm và nhận được sự đồng thuận cao của người dân.

Việc nâng cao chất lượng tiếp công dân từ người đứng đầu cũng có tác động lan tỏa mạnh mẽ tới các cấp các ngành trong tỉnh. Và do đó nhiều vụ việc đã được giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, người dân không phải tiếp tục chờ đợi và gửi đơn lên cấp trên.

Tôi hiểu rằng nếu nguyện vọng của người dân được giải quyết thấu đáo sẽ có tác dụng lớn trong việc gây dựng niềm tin của người dân đối với Đảng, với Chính phủ và đội ngũ cán bộ, lãnh đạo của tỉnh. Và khi có được niềm tin là có tất cả.

Từ thực tiễn lãnh đạo, điều hành ở địa phương, bà đúc kết được điều gì để vượt qua được cái khó của một Bí thư không là người địa phương?

Có lẽ bài học “đoàn kết” mà cha ông ta đã dạy vẫn là trên hết. Sự đồng lòng nhất trí, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” và sự bổ trợ cho nhau trong tập thể Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh luôn là bài học không thể thiếu.

Đồng thời với đó là phát huy vai trò của người đứng đầu, tuân thủ tuyệt đối các chủ trương, nguyên tắc, quy định của Đảng là bài học sâu sắc nhất với tôi trong suốt thời gian công tác tại địa phương.

Theo tôi, trước hết dù ở đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nếu không có một tập thể đoàn kết, dám đổi mới, sáng tạo, có khát vọng phát triển, dám đương đầu trước những vấn đề mới, khó; nếu không có sự chung sức đồng lòng của các doanh nghiệp và niềm tin của người dân trong tỉnh thì tôi và tập thể lãnh đạo tỉnh cũng như Thái Nguyên khó có thể gặt hái được một số thành tựu như vừa qua.

Ngoài ra, tôi cũng luôn tâm niệm rằng: “Công việc càng khó, càng phức tạp thì lãnh đạo, chỉ đạo càng phải công khai, minh bạch và tập trung mọi nguồn lực hợp pháp để quyết tâm thực hiện”; “Chủ trương đúng - Đồng thuận cao - Hành động quyết liệt” thì chắc chắn mọi việc sẽ đạt được kết quả khả quan nhất. 

Khi giải quyết, xử lý công việc phải luôn nhiệt huyết, phải “nóng” nhưng tuyệt đối không được “vội”; mọi việc phải được triển khai “nhanh” nhưng tuyệt đối không được “ẩu”; và phải luôn “chủ động" trước mọi tình huống nhưng tuyệt đối không được “chủ quan” .

Nhờ vậy mà tôi thấy, dù cho công việc có khó khăn đến đâu, tôi cùng với tập thể lãnh đạo tỉnh cũng quyết tâm cố gắng, đồng lòng nhất trí tìm giải pháp và sẽ hoàn thành.

Trong những năm trải nghiệm ở địa phương, điều gì bà tâm đắc nhất?

Như nhiều lần trò chuyện cùng báo VietNamNet, điều mà tôi chọn lựa và tâm đắc nhất khi về Thái Nguyên đó là công tác chuyển đổi số.

Thái Nguyên đã xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu, là con đường ngắn nhất, kinh tế nhất để giúp hiện thực hóa được nhiều mục tiêu trong phát triển kinh tế, là cơ hội tạo ra những bứt phá mạnh mẽ trong quá trình phát triển.

Chính vì vậy, Thái Nguyên đã khá nhanh nhạy, và có sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề chuyển đổi số trong cả 3 lĩnh vực, kinh tế số, chính quyền số và xã hội số. Việc đi trước đón đầu trong lĩnh vực chuyển đổi số là một trong những giải pháp giúp Thái Nguyên thực hiện được giấc mơ là cực tăng trưởng, là trung tâm kinh tế công nghiệp hiện đại không chỉ của vùng Trung du miền núi phía Bắc mà còn là của vùng Thủ đô vào năm 2030.

Và đến nay, thật vui mừng khi Thái Nguyên trở thành một trong 10 tỉnh đứng đầu cả nước về chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, việc thu hút các doanh nghiệp FDI đầu tư mới và tiếp tục mở rộng đầu tư thêm vào tỉnh cũng là một trong những dấu ấn của Thái Nguyên trong thời gian qua, tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh Thái Nguyên liên tục lọt top 5 toàn quốc.

Công tác thu ngân sách trên địa bàn tỉnh từ đầu nhiệm kỳ tới nay, năm sau đều cao hơn năm trước và đạt cao nhất từ trước tới nay.

Đây là cơ sở giúp chúng tôi có điều kiện để chăm lo cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và thực hiện nhiều chính sách an sinh xã hội khác.

Chúng tôi cũng có điều kiện tài chính để thực hiện nhiều dự án đầu tư công nổi bật là dự án đầu tư xây dựng con đường liên vùng nối liền “Bắc Giang – Vĩnh Phúc – Thái Nguyên” (khởi công năm 2022 dự kiến hoàn thành tháng 9/2024) và nhiều con đường tỉnh, đường huyện, đường xã được tập trung đầu tư,…

Việc Thị xã Phổ Yên được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định trở thành thành phố trực thuộc tỉnh sớm gần 3 năm so với chỉ tiêu đặt ra và trở thành một cực tăng trưởng mới quan trọng của tỉnh góp phần không nhỏ vào các kết quả tăng trưởng của tỉnh thời gian qua cũng có thể nói là một điểm nhấn trong các kết quả đạt được của nửa đầu nhiệm kỳ vừa qua.

Vậy còn điều gì khiến bà trăn trở, ấp ủ muốn thực hiện trong thời gian tới?

Tôi vẫn còn có rất nhiều điều trăn trở, chẳng hạn như trong lĩnh vực du lịch, Thái Nguyên chúng tôi đẹp lắm, như nhà thơ Nguyễn Thìn đã miêu tả:

“Anh đến quê em một lần thôi

Quê em đất Thái đẹp tuyệt vời

Núi non hùng vĩ bao thơ mộng

Vẻ đẹp nên thơ chẳng muốn dời”.

Thái Nguyên chúng tôi có hàng trăm di tích lịch sử, và đặc biệt còn nổi tiếng vì có Hồ Núi Cốc đã từng được ví như Vịnh Hạ Long “trên cạn”, nhưng hiện nay việc đầu tư, thu hút đầu tư và khách du lịch đến với Thái Nguyên vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng.

Hay như Thái Nguyên nổi tiếng nhất về trà, có tổng diện tích trồng trà là 22 nghìn ha lớn nhất toàn quốc, nhưng tổng thu từ cây trà hiện nay ước mới đạt khoảng trên 11 nghìn tỷ (gần 500 triệu USD).

Vì vậy, chúng tôi còn mong muốn phải nâng cao việc quản lý chất lượng, mẫu mã, đưa văn hóa, truyền thống thổi hồn vào từng chén trà Thái Nguyên để từng bước tăng dần giá trị gia tăng từ cây trà.

Tôi mơ ước, với tổng diện tích trồng trà như bây giờ, phấn đấu đến năm 2035 tổng thu từ cây trà của bà con tỉnh Thái Nguyên phải là 1 tỷ USD và “người Thái Nguyên sẽ làm giàu từ cây trà”.

Như vậy, để xây dựng Thái Nguyên trở thành một trong những tỉnh giàu có và phồn thịnh nhất miền Bắc nước ta như mong mỏi của Bác Hồ khi Người về thăm Thái Nguyên năm 1964, tôi thấy còn rất nhiều việc phải triển khai kịp thời trong thời gian tới.

Lời Tòa soạn:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 cơ bản bố trí bí thư cấp tỉnh không là người địa phương.

Đến nay, số bí thư cấp tỉnh không là người địa phương ngày càng nhiều, được lựa chọn kỹ lưỡng và chất lượng. Việc này đã mang đến luồng gió mới, góp phần đổi mới và tạo nhiều chuyển biến cho địa phương. 

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay có “bóng dáng” đậm nét của nhiều bí thư tỉnh ủy không là người địa phương. Đồng thời, nhiều cán bộ qua luân chuyển về địa phương đã trưởng thành và trở về giữ chức vụ quan trọng ở Trung ương.

Qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với một số bí thư tỉnh ủy được luân chuyển thời gian qua, VietNamNet khái quát lại kết quả bước đầu trong triển khai, thực hiện chủ trương “bí thư không là người địa phương”.

Năm 2001, đang là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, ông Vũ Trọng Kim được luân chuyển về Quảng Trị làm Bí thư Tỉnh uỷ. 

“Thời điểm đó, anh Nguyễn Văn An - Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đến gặp tôi và cho biết, Trung ương muốn điều động một cán bộ về làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị. Không do dự gì thêm, tôi nhận lời với tâm thế sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi tổ quốc cần”, ông Vũ Trọng Kim nhớ lại.

Khi mới làm Bí thư Quảng Trị, ông Kim nhận thấy, trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh không có vấn đề gì. Tuy nhiên, ‘vòng ngoài’ có nhiều luồng ý kiến, họ muốn lấy người tại chỗ lên làm Bí thư Tỉnh ủy. Có nhiều người còn nói rằng "Quảng Trị hết người rồi sao mà lấy người nơi khác về". Thậm chí có người truyền tin rằng ông Kim về ‘tráng men’, một thời gian lại đi.

Nhưng với bản lĩnh của chàng thanh niên miền biển tỉnh Quảng Nam, được rèn luyện trong kháng chiến ở Tây Nguyên, rồi trưởng thành trong công tác đoàn, ông Vũ Trọng Kim không ái ngại với những gì mình phải đối mặt khi làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị.

Nhiệm vụ quan trọng nhất được ông Vũ Trọng Kim xác định khi mới làm Bí thư Quảng Trị là ổn định tình hình cơ sở để mọi người tập trung làm việc. “Sự đoàn kết, nhất trí đó sẽ xoá đi nghi ngờ của người dân về người đứng đầu tỉnh nhưng ở địa phương khác đến. Tức là phải đặt được dấu chấm hết cho giai đoạn cũ, mở ra giai đoạn mới với sự đồng lòng, nhất trí vượt qua khó khăn, thử thách”, ông Kim chia sẻ.

Thực tế phải mất 2 năm ở Quảng Trị, ông Vũ Trọng Kim mới ổn định được tình hình. Để làm được điều đó, năm 2003, Bí thư Tỉnh ủy Vũ Trọng Kim phải tự nhận hình thức khiển trách với Trung ương, do chưa làm tròn nhiệm vụ.

“Tôi nhận kỷ luật như vậy là để gợi mở cho những người gây ra tình trạng mất đoàn kết, nhận trách nhiệm một cách nhẹ nhàng. Nhờ đó mới luân chuyển được họ sang vị trí công tác khác để ổn định tình hình trong tỉnh”, ông Kim cho hay.

Từ câu chuyện của bản thân và thực tiễn trong công tác cán bộ thời gian qua, ông Vũ Trọng Kim cho rằng, chủ trương Bí thư Tỉnh ủy không phải là người địa phương đã tạo sự đổi mới mang tính đột phá trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở từng tỉnh thành. Điều đó đã thúc đẩy kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân ở nhiều địa phương. Trong công tác cán bộ, khi Bí thư Tỉnh ủy không phải là người địa phương thì việc luân chuyển, bổ nhiệm cũng công tâm, khách quan hơn.

Nhưng để có được kết quả đó, theo nguyên Bí thư Quảng Trị, trong mắt của người làm công tác tổ chức phải tính toán kỹ năng lực, trình độ chuyên môn, thậm chí cả tính cách của từng cán bộ trong diện quy hoạch để đề bạt, bổ nhiệm về làm Bí thư tỉnh thành. Tức là Trung ương luôn đào tạo, chuẩn bị sẵn nguồn cán bộ để luân chuyển về nơi có nhu cầu.

Tuy nhiên, theo ông Vũ Trọng Kim, với những cán bộ sẵn sàng dấn thân, đương đầu với thử thách mới là yếu tố quan trọng nhất khi bố trí họ làm Bí thư Tỉnh uỷ. “Nếu không có tính chiến đấu, không chịu tìm tòi cái mới thì vị bí thư được luân chuyển khó lập ‘chiến công’ với địa phương. Tức là người ở nơi khác về cũng không thoát được cái bóng của một số vị bí thư địa phương: không chịu tìm hiểu, không chịu phát hiện, bằng lòng với việc mình làm, thậm chí thỏa hiệp với cả cái sai”, ông Kim nói.

Ông Vũ Trọng Kim nhớ lại khi về Quảng Trị làm Bí thư Tỉnh ủy, ông nêu ra ý tưởng làm cầu Cửa Tùng trên sông Bến Hải đã bị nhiều cán bộ ở đây hoài nghi về tính khả thi của dự án. Họ cho rằng đây là điều không tưởng. Còn ông thì vẫn quyết tâm đề xuất với Trung ương làm cầu Cửa Tùng để phát triển du lịch ven biển, kết hợp với bảo đảm an ninh quốc phòng cho tỉnh Quảng Trị.

Tháng 9/2003, cầu Cửa Tùng được khởi công, với tổng mức đầu tư gần 60 tỷ đồng. Đầu năm 2007, cầu khánh thành, mở ra cơ hội phát triển kinh tế - xã hội cho vùng dân cư ven biển Vĩnh Linh, Gio Linh. Từ đó, người dân nơi đây còn gọi cầu Cửa Tùng là "cầu ông Kim".

“Nói như vậy để thấy rằng, người tại chỗ thì nhìn cái gì cũng có thể như nhau. Nhưng người nơi khác đến sẽ dễ nhìn thấy tiềm năng, thế mạnh của địa phương; thấy những điểm nghẽn cần tháo gỡ để phát triển”, nguyên Bí thư Quảng trị chia sẻ.

Từng ‘chân ướt chân ráo’ về Quảng Trị làm Bí thư Tỉnh uỷ hơn 20 năm trước, đến nay, ông Vũ Trọng Kim nhận thấy chủ trương bố trí Bí thư tỉnh không là người địa phương là quyết định cực kỳ đúng đắn và đã đạt được nhiều kết quả tốt.

Do vậy, theo ông, Trung ương phải sàng lọc thật tốt đội ngũ cán bộ sẵn sàng về địa phương để dấn thân. Bên cạnh đó, cũng phải tránh được tình trạng cán bộ chạy chức, chạy quyền, về địa phương để tráng men, làm đẹp hồ sơ, đủ tiêu chuẩn để được đề bạt, bổ nhiệm vị trí cao hơn.

Cũng phải tránh tình trạng chỗ thuận lợi nhiều người muốn đến mà bố trí cán bộ không phù hợp với năng lực, sở trường và yêu cầu của chính địa phương đó. Và một khi đã chọn đúng người, thì địa phương đó sẽ có cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời giải quyết được nhiều vấn đề nội bộ.

“Thực tiễn đã chứng minh chủ trương này hoàn toàn đúng đắn. Nhiều cán bộ được luân chuyển về địa phương đã thể hiện được mình qua sự dấn thân, sẵn sàng làm việc khó, đề bạt cái mới để địa phương phát triển”, ông Vũ Trọng Kim nói thêm.

Lời Tòa soạn:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 cơ bản bố trí bí thư cấp tỉnh không là người địa phương.

Đến nay, số bí thư cấp tỉnh không là người địa phương ngày càng nhiều, được lựa chọn kỹ lưỡng và chất lượng. Việc này đã mang đến luồng gió mới, góp phần đổi mới và tạo nhiều chuyển biến cho địa phương. 

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay có “bóng dáng” đậm nét của nhiều bí thư tỉnh ủy không là người địa phương. Đồng thời, nhiều cán bộ qua luân chuyển về địa phương đã trưởng thành và trở về giữ chức vụ quan trọng ở Trung ương.

Qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với một số bí thư tỉnh ủy được luân chuyển thời gian qua, VietNamNet khái quát lại kết quả bước đầu trong triển khai, thực hiện chủ trương “bí thư không là người địa phương”.

 

Cụm từ “Bí thư địa phương” thường được dùng để chỉ những lãnh đạo là người sinh ra, lớn lên và làm việc lâu dài ở địa phương, phân biệt với cán bộ lãnh đạo sinh ra và trưởng thành từ nơi khác hay các bộ, ngành, đơn vị.

Lãnh đạo gắn bó với địa bàn lãnh thổ cụ thể là một thực tế phổ biến tại các nền chính trị trên thế giới, giúp cá nhân tích lũy được “vốn chính trị”, từng bước bồi đắp được uy tín chính trị.

Thành công tại “địa bàn chính trị của mình” chính là bàn đạp để cá nhân vươn tới các cương vị cao hơn trong chính quyền trung ương (như tại Trung Quốc, Nhật Bản) hay chính quyền liên bang (như tại Mỹ, Đức).

Theo logic tâm lý-chính trị-xã hội, khi gắn bó lâu dài với một địa bàn cụ thể, những ê kíp làm việc quen thuộc sẽ dần hình thành xoay quanh mỗi nhà lãnh đạo. Các “ê kíp thân hữu”, hiểu theo nghĩa tích cực, bảo đảm độ tin cậy chính trị giữa các thành viên, duy trì cam kết hợp tác trong nhóm, góp phần mở rộng sự ủng hộ chính trị cho nhà lãnh đạo, gia tăng sự nhất quán, thông suốt cho quá trình ban hành và thực thi các quyết định lãnh đạo, quản lý.

Với một số ưu điểm, ê kíp thân hữu cũng được chấp nhận ở mức độ nhất định. Chẳng hạn, tại Mỹ, khi một cá nhân thắng cử để trở thành tổng thống thì họ sẽ có thẩm quyền bổ nhiệm khoảng 3.000 vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính quyền liên bang.

Vì thế, tổng thống có thể chọn những người đã gắn bó mật thiết với mình từ trong quá khứ. Sau khi nhà lãnh đạo kết thúc nhiệm kỳ, thành viên chủ chốt trong các ê kíp thân hữu cũng thường rời khỏi vị trí công quyền.

Ở nước ta, làm cán bộ là một “sự nghiệp đời người”, cá nhân thường vẫn gắn bó với vị trí đảm nhiệm kể cả khi nhân sự lãnh đạo chủ chốt kết thúc nhiệm kỳ. Vì thế, khi một ê kíp thân hữu nào đó, dựa trên các quan hệ gia đình, dòng họ, quê quán, nghề nghiệp… chiếm thế áp đảo tại cấu trúc chính trị địa phương thì sẽ tạo ra nguy cơ “thân hữu hóa quan chức”.

Nếu không được ngăn chặn, các ê kíp thân hữu hóa sẽ tiếp tục phát triển, và hệ lụy tiêu cực nhất là có thể biến hệ thống chính trị địa phương thành phương tiện quyền lực cho các nhóm lợi ích chính trị.

Từ năm 2002, bố trí lãnh đạo không là người địa phương đã được coi là một trong những giải pháp đổi mới công tác cán bộ, được nêu ra trong Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý”, và sau đó thực hiện thử nghiệm tại một số tỉnh, thành trực thuộc trung ương. 

Theo đó, bí thư được luân chuyển từ nơi khác đến cũng được kỳ vọng có thể giúp đẩy lui các hiện tượng “thân hữu hóa quan chức” tại địa phương.

Cho đến nay, chủ trương nêu trên vẫn luôn được khẳng định nhất quán trong các văn kiện của Đảng liên quan tới công tác cán bộ.

Gần đây nhất, Nghị quyết số 26/2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa 12 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã đề ra mục tiêu: Đến năm 2025 phải cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương.

Tác dụng đáng chú ý thứ nhất của chính sách bố trí bí thư không phải người địa phương là rèn luyện, thử thách, và phát triển năng lực lãnh đạo. Vị thế người đứng đầu ban lãnh đạo tại một địa bàn mới lạ sẽ là một thách thức với mỗi cán bộ.

Một mặt, môi trường làm việc không quen thuộc có thể thúc đẩy cán bộ hoàn thiện bản thân, nỗ lực phấn đấu để khẳng định năng lực, tạo cơ sở cho những cơ hội thăng tiến cao hơn trong tương lai.

Mặt khác, môi trường địa phương cũng có thể trở thành liều thuốc thử khắc nghiệt, khiến cán bộ bộc lộ những hạn chế, yếu kém.

Thứ hai, với tâm thế của người được phân công từ nơi khác về, bí thư được mong đợi có thể thúc đẩy sự chuyển động tích cực của cả hệ thống chính trị địa phương, đặc biệt là có thể giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, trì trệ, “cục bộ, bè phái, cánh hẩu”.

Không chịu nhiều sự ràng buộc trong các quan hệ tại địa phương, cán bộ luân chuyển trong vị thế người đứng đầu được cho là có thể tư duy và hành động khách quan, quyết liệt hơn trong lãnh đạo, quản lý.

Tuy nhiên, sau khoảng hai thập kỷ thực hiện chính sách, số lượng bí thư không phải người địa phương không đạt được như kỳ vọng tại cấp tỉnh.

Trước đây có những biểu hiện “hành chính hóa” trong luân chuyển cán bộ chủ chốt. Đó là việc sử dụng thẩm quyền của cơ quan cấp trên để bố trí bí thư địa phương theo tình huống, cán bộ mới đảm nhiệm vị trí trong thời gian ngắn đã được điều động đến vị trí khác, hoặc cán bộ với sự nghiệp thuần túy chuyên môn nhưng lại được phân công làm lãnh đạo chính trị địa phương.

Những biểu hiện này dẫn đến dư luận về tình trạng “tráng men địa phương”, tâm thế làm việc “hài hòa để giữ mình”, đợi ngày sớm trở về Trung ương.

Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ hiện nay, chính sách bí thư không phải người địa phương đang cho thấy có những bước đổi mới mang lại hiệu quả tích cực. Có những bí thư trưởng thành hơn, bồi đắp uy tín và được luân chuyển về trung ương để làm bộ trưởng, như tại các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Giao thông vận tải, Y tế…

Cũng có những bí thư tạo được dấu ấn nhất định như tại Thái Nguyên, Yên Bái, Thái Bình…

Thực tế vẫn còn tâm lý không muốn tiếp nhận người đứng đầu được luân chuyển từ nơi khác về. Điều này cũng dễ hiểu bởi xét tâm lý chính trị phổ biến, người địa phương được làm lãnh đạo cao nhất tại địa phương không chỉ là động lực phấn đấu, vinh dự cho cá nhân, mà còn là niềm tự hào của quê hương…

Để từng bước khắc phục những bất cập và hoàn thiện hơn nữa chủ trương bí thư không phải người địa phương cần xây dựng hệ tiêu chí cụ thể hơn nữa cho các ứng viên có thể được bổ nhiệm vào vị trí bí thư địa phương.

Vị thế và vai trò số một của bí thư là lãnh đạo chính trị, đòi hỏi tố chất toàn diện và sự thừa nhận của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, cũng như nhân dân địa phương. Vì thế, các tiêu chí cần cân nhắc đến nhiều chiều cạnh nhằm giảm thiểu tình trạng luân chuyển theo tình huống, với những ứng viên chưa đủ uy tín chính trị.

Để tránh tình trạng tráng men, nên chăng trước khi được bổ nhiệm làm bí thư địa phương, cán bộ được luân chuyển cần thời gian đảm nhiệm các vị trí then chốt tại địa phương đó ít nhất một nửa nhiệm kỳ (giai đoạn chuẩn bị, thử thách).

Quy định này sẽ giúp cán bộ làm quen với môi trường làm việc mới, tích lũy trải nghiệm và sự ủng hộ chính trị để có thể được bầu vào vị trí bí thư tại Đại hội Đảng bộ địa phương.

Mỗi vị trí bí thư địa phương cần luân chuyển từ 2 - 3 ứng viên cho nửa nhiệm kỳ thử thách. Nhờ đó, cơ quan chịu trách nhiệm về nhân sự có thể so sánh sự thể hiện trong công việc giữa các ứng viên, đánh giá xem ứng viên nào phù hợp nhất cho địa phương, giảm bớt rủi ro buộc phải bổ nhiệm ứng viên duy nhất.

Ngoài ra, để củng cố tính chính danh cho vị thế lãnh đạo chính trị, cần quy định cán bộ luân chuyển sẽ được bầu vào vị trí bí thư tại Đại hội Đảng bộ địa phương. Quy định này tránh nguy cơ luân chuyển theo tình huống nhất thời.

Mỗi ứng viên được bổ nhiệm làm bí thư địa phương phải hoàn thành nhiệm vụ ở địa phương từ hơn một nhiệm kỳ, ngoại trừ trường hợp thật đặc biệt. Tính cả thời gian thử thách, luân chuyển về địa phương phải đủ dài để ứng viên toàn tâm, toàn ý làm việc. Qua đó có thể bộc lộ tối đa và được đánh giá chính xác về năng lực cũng như khả năng phát triển sau này. Quy định như vậy cũng sẽ xóa bỏ tận gốc mọi ý định luân chuyển theo tình huống, để “tráng men địa phương”.

Một điều quan trọng nữa là cần tôn trọng ý kiến của địa phương trong việc lựa chọn ứng viên cho vị trí bí thư.

Tôn trọng ý kiến của địa phương là sự dung hòa giữa “tập trung” và “dân chủ”, giảm bớt cảm giác bị áp đặt về cán bộ chủ chốt, hướng đến những ứng viên có thể đáp ứng được nhiều nhất các mong đợi của cả Trung ương và địa phương.

Về lâu dài, cần xây dựng và ban hành các tiêu chí chi tiết để xác định những địa phương phải thực hiện chủ trương bí thư không là người địa phương. Các tiêu chí cần gắn với các đặc điểm của địa phương nhằm bảo đảm việc phân công cán bộ chủ chốt đáp ứng đúng nhu cầu lãnh đạo tại địa phương, xóa bỏ suy nghĩ mặc định rằng cứ “người từ nơi khác chuyển về thì sẽ tốt hơn người địa phương”.

Cũng có nghĩa, nếu các ban lãnh đạo địa phương đang làm việc tốt, không xuất hiện vấn đề nan giải thì không nhất thiết phải bố trí bí thư là người từ nơi khác về.

Hội nghị Trung ương 8 khóa 13 mới đây đã tiến hành những bước khởi đầu cho quá trình xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ khóa 14.

Phát biểu bế mạc hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh đến việc coi trọng chất lượng gắn với cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tạo sự đồng bộ, tổng thể, liên thông trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn kết với công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ và công tác chuẩn bị nhân sự nhiệm kỳ tới.

Và rõ ràng việc thực hiện chủ trương bí thư không là người địa phương chính là một bước chuẩn bị nhân sự, thể hiện sự “coi trọng chất lượng gắn kết với công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ và công tác chuẩn bị nhân sự nhiệm kỳ tới”.

back_to_top