Với dân số khoảng 1,3 triệu, người Khmer sống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và thành phố Hồ Chí Minh.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, số lượng người Khmer – vào năm 1997 – có 3.882 người, nhưng vào năm 2015 – chỉ tính theo số tròn – là 25.000 người, sống rải rác ở nhiều quận song tập trung tương đối đông ở khu vực kênh Nhiêu Lộc, Thị Nghè, cạnh chùa Chăntarăngsây thuộc phường 7, quận 3 và chùa Pôthivong thuộc phường 10, quận Tân Bình.
Người Khmer có khá nhiều lễ hội, trong đó chùa và chư tăng đóng vai trò quan trọng, vì đó là trung tâm sinh hoạt cộng đồng, trung tâm văn hóa mang tính chất truyền thống. Những lễ hội lớn gồm có:
1. Lễ Meak Bochia (là lễ Ban hành giáo lý của Đức Phật); 2. Lễ Bân Chôl Chnăm Thmây (là lễ Tết cổ truyền, lễ hội lớn nhất trong năm của người Khmer); 3. Lễ Bân Visac Bochia (là lễ Phật Đản); 4. Lễ Bân Chôl Vôssa (là lễ Nhập hạ); 5. Lễ Đôlta (là lễ cúng ông bà hay lễ báo hiếu); 6. Lễ Bân Chênh Vôssa (là lễ Xuất hạ); 7. Lễ Bân Kathanh Tean (là lễ Dâng y); 8. Lễ Ok Om Bok (là lễ Cúng trăng). Về mỗi lễ hội trên đây đều chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc về đạo, về đời.
Tết Năm mới chính là lễ hội lớn nhất và mang tính tổng hợp nhất của đồng bào Khmer. Chất nông nghiệp thấm đẫm trong niềm tin Phật giáo và Bà-la-môn giáo. Đây không chỉ là lễ hội để đoàn kết cộng đồng mà còn là dịp để con người cộng cảm với thiên nhiên (qua nghi thức cầu mưa); không chỉ là dịp đồng bào thể hiện ước vọng một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu mà còn là dịp để tưởng nhớ tổ tiên quá vãng.
Tết năm mới của đồng bào Khmer được xác định theo lịch Khmer, diễn ra vào trung tuần tháng 4 Dương lịch, kéo dài từ 10 - 15 ngày. Đây là tháng thứ 5 theo Phật lịch nhưng được dân gian Khmer quan niệm như tháng đầu tiên trong năm. Theo nông lịch Khmer, đây chính là giai đoạn nông nhàn gần như tuyệt đối, vì là cao điểm của mùa khô, lúa mùa đã thu hoạch xong, mọi hoạt động trồng trọt, chăn nuôi đều tạm dừng lại để chờ những cơn mưa đầu mùa.
Theo phong tục của đồng bào Khmer Nam bộ, hàng năm cứ vào ngày 29 tháng 8 đến ngày mùng 01 tháng 9 âm lịch, bà con lại nô nức tổ chức lễ Sene Dolta hay gọi là Lễ cúng ông bà nhằm tưởng nhớ đến công ơn và cầu phước cho linh hồn của các bậc sinh thành, những người trong thân tộc quá cố và tri ân tổ tiên đã khai phá đất đai, phù hộ cho phum, sóc được bình an, thịnh vượng. Ngoài ra, Lễ này vừa thể hiện nét đẹp truyền thống của đời sống văn hóa, tinh thần trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng gắn với ngôi chùa Khmer Nam bộ.
Theo quan niệm tín ngưỡng của người Khmer, Mặt trăng là vị thần cai quản thời tiết và mùa màng trong năm. Nhằm ghi nhớ và tạ ơn vị thần này, ngoài tham gia cúng trong cộng đồng tại phum sóc, tại chùa, hầu hết các gia đình Khmer ở Nam bộ thường tổ chức lễ hội Óoc-om-bok hay còn gọi là lễ cúng trăng tại nhà theo nghi thức khá đơn giản. Để chuẩn bị cho nghi thức này, tại khuôn viên nhà, nơi không có bóng cây che khuất mặt trăng, gia chủ xây dựng một cái cổng, hai trụ làm bằng tre hoặc trúc được trang trí hoa lá, trên cổng giăng một dây trầu gồm 12 lá trầu cuốn tròn tượng trưng cho 12 tháng trong năm và một dây cau gồm 7 trái chẻ vỏ ra như hai cánh con ong, tượng trưng cho 7 ngày trong tuần.
Về Tục thờ thần Neak Ta (tức là vị thần bảo hộ) và Tục thờ thần Arak (tức là vị thần của dòng họ). Ngoài những vị thần trên đây, tác giả kể thêm những vị thần khác, đó là Thần Mặt trời, Thần Mặt trăng và sự Thờ cúng Tổ tiên ông bà.
Về ngày lễ hội, dầu lớn hay nhỏ, thì các vị sư trong chùa cũng như các vị dẫn lễ đều phải thực hiện đúng 8 nghi thức sau đây: 1. Nghi thức qui y thọ giới; 2. Nghi thức thờ Phật; 3. Nghi thức tụng kinh; 4. Nghi thức sám hối; 5. Nghi thức trai tăng (tức là các vị sư dùng cơm); 6. Nghi thức thuyết pháp; 7. Nghi thức khất thực; 8. Nghi thức cúng dường và đặt bát hội tại chùa.
Sau các lễ hội và các tín ngưỡng, tác giả nói về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của người Khmer ở thành phố Hồ Chí Minh. Đó là các điệu múa dân gian như: 1. Múa Rom Vong (theo nhịp 4/4); 2. Múa Lâm lêu (theo nhịp 2/4); 3. Múa Saravan (theo nhịp 2/8); 4. Múa trống Seydam.
Cùng các điệu múa còn có các nhạc cụ như Bộ đàn gõ Phlêng pinpet (tức là dàn nhạc ngũ âm), nhạc cụ Rônek ek (gồm 21 thanh tre rời), nhạc cụ Rônek thung (gồm 16 thanh gỗ), nhạc cụ Rônek dek (gồm 21 thanh sắt), nhạc cụ Cuông thum và Cuông tuôt (tức là cồng lớn và cồng nhỏ), nhạc cụ Skôr thum (là trống lớn), nhạc cụ Srây pinper (tức là kèn thổi)…
Là một dân tộc sống lâu đời ở vùng đất Nam bộ, đã có những lễ hội truyền thống bắt nguồn từ cuộc sống lao động xa xưa nên các nghi lễ, tín ngưỡng ấy đã có dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn người Khmer, nên vì thời cuộc đã phải di chuyển nhiều nơi vẫn không hề bị rời xa tâm thức cội nguồn.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, sinh hoạt lễ hội của người Khmer chủ yếu tập trung ở hai ngôi chùa thuộc phường 7 quận 3 và phường 10 Tân Bình.
Kiều Oanh
Ảnh: Duy Tuấn
Video: Duy Khánh, Trần Thủy, Bạt Tuấn
12/12/2021 02:27 (GMT+07:00)