Để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi, ngày 27-11-1989, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW, “Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”; theo đó, ngày 13-3-1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 72-HĐBT “Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi”.

Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nhấn mạnh, cần “ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách…”.

Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, ngày 2-10-2015, của Chính phủ, “Về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021” xác định “trẻ em học mẫu giáo và học sinh là người dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được giảm học phí 70%”.

Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, ngày 18-7-2016, của Chính phủ, “Quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông xã, thôn đặc biệt khó khăn” và Nghị định số 57/2017/NĐ-CP, ngày 9-5-2017, của Chính phủ, “Quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên, các dân tộc thiểu số rất ít người” đã quy định cụ thể mức hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số ở từng cấp học…

Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 khẳng định cần “đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong giáo dục - đào tạo… Tiến tới phổ cập trung học phổ thông gắn với phân luồng trong giáo dục. Giảm tỷ lệ mù chữ, bỏ học ở miền núi”.

Về cơ sở vật chất nhà trường và học sinh, sinh viên: Sau 15 năm đổi mới, đến năm 2000, giáo dục dân tộc thiểu số, miền núi bước đầu có sự đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất trường học, các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã xây dựng các trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc ít người.

Đến giai đoạn 2001 - 2010, hầu hết các tỉnh và huyện có đông đồng bào dân tộc thiểu số đã có trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú; các cơ sở đào tạo nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các vùng khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên. Năm học 2019 - 2020, toàn quốc có 320 trường phổ thông dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với tổng số 105.818 học sinh và 1.134 trường phổ thông dân tộc bán trú ở 29 tỉnh, thành phố với quy mô 250.795 học sinh.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt quan tâm đến tạo nguồn sinh viên dân tộc thiểu số ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trong các trường dự bị đại học; đến năm 2019, cả nước có 4 trường đào tạo hệ dự bị đại học, bao gồm Trường phổ thông Vùng cao Việt Bắc, Đại học Tây Nguyên, Đại học Cần Thơ và Đại học Trà Vinh với quy mô hơn 5.000 học sinh dự bị/năm.

Chính phủ đặc biệt ưu tiên đào tạo giáo viên người dân tộc và giáo viên biết tiếng dân tộc cho các cơ sở giáo dục ở vùng có nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số và đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, như phụ cấp tăng thu nhập, tạo thuận lợi về điều kiện sống và làm việc cho giáo viên từ các địa phương trong cả nước nhận nhiệm vụ giảng dạy tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi yên tâm công tác. Các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ giáo viên được quan tâm, thường xuyên được tổ chức…

Qua đó, đội ngũ giáo viên giảng dạy ở khu vực này gia tăng cả về lượng lẫn chất. Năm học 2019 - 2020, tỷ lệ giáo viên dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn và trên chuẩn chiếm tỷ lệ 98,07%.

Học sinh dân tộc thiểu số học theo chương trình giáo dục thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên, do đặc thù học sinh khu vực này và các trường chuyên biệt có thêm chương trình giáo dục chuyển tiếp, đa giai đoạn, nên nhà trường đã “thiết kế các chương trình giáo dục chuyển tiếp, đa giai đoạn và áp dụng các quy trình đào tạo mềm dẻo nhằm tăng cơ hội học đại học cho những người ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa”.

Ngoài việc dạy văn hóa, các trường còn tổ chức nhiều hoạt động nội trú, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề... nhằm phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực cho học sinh dân tộc thiểu số, miền núi.

Ngoài ra, các địa phương đã chủ động vận dụng sáng tạo giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương cho học sinh như sưu tầm, biên soạn tài liệu giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương đưa vào giảng dạy trong trường học.

Kể từ năm 2011, 6 tiếng dân tộc (Mông, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na, Chăm, Khmer) đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức triển khai dạy cho học sinh người dân tộc thiểu số; đến năm học 2019 - 2020, đã có 174.562 học sinh trong 5.267 lớp tại 756 trường thuộc 22 tỉnh, thành phố được học thêm tiếng dân tộc của mình ngoài các môn học văn hoá.

V.v....

Nhờ đó kết quả học tập của học sinh dân tộc thiểu số đã có sự chuyển biến tích cực. Điều này có thể nhìn qua 8 kỳ tuyên dương cho thấy thành tích của học sinh, sinh viên, thanh niên dân tộc thiểu số xuất sắc, tiêu biểu năm sau tăng hơn các năm trước cả về số lượng và chất lượng.

Tổng số học sinh, sinh viên, thanh niên dân tộc thiểu số xuất sắc, tiêu biểu được tuyên dương năm 2022 là 142 em, thuộc 50 dân tộc, đến từ 47 tỉnh, thành phố, vùng dân tộc thiểu số, miền núi trên toàn quốc.

Hồng Vân