Giữa tháng 8 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Báo cáo kết quả giám sát bước đầu chuyên đề giám sát của Quốc hội về “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, Đoàn giám sát ghi nhận, đánh giá cao Chính phủ và các bộ, ngành đã có nhiều hoạt động giám sát, nắm bắt kịp thời những vấn đề vướng mắc của địa phương để kịp thời chỉ đạo, giải quyết.
Cụ thể, Chính phủ đã rà soát, tổng hợp 339 kiến nghị của địa phương và ban hành Công điện 71/CĐ-TTg phân công, giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành cơ quan liên quan chịu trách nhiệm hướng dẫn, trả lời địa phương và tham mưu, sửa đổi văn bản theo thẩm quyền còn có nhiều vướng mắc.
“Việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, đã có tác động, góp phần nâng cao nhận thức, huy động sự vào cuộc của hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp trong việc phát triển kinh tế-xã hội, giảm nghèo ở vùng nông thôn, miền núi khó khăn và đặc biệt khó khăn”, Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát nhấn mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, báo cáo của Đoàn giám sát cũng chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong thực tế triển khai thực hiện. Cụ thể, năng lực một số cán bộ theo dõi các chương trình mục tiêu quốc gia còn nhiều hạn chế so với yêu cầu, nhất là ở các tỉnh, huyện, xã nghèo miền núi, biên giới, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện Chương trình.
Cán bộ giúp việc Ban Quản lý cấp xã để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia chủ yếu làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, nên công tác tổng hợp báo cáo số liệu đôi khi chưa đầy đủ. Còn có tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm, né tránh.
Bên cạnh đó, mặc dù về số lượng các văn bản quản lý đến nay cơ bản đã hoàn thành, nhưng qua giám sát nhiều địa phương phản ánh số lượng văn bản quá nhiều, hơn 300 văn bản của cả Trung ương và địa phương. Nhiều nội dung hướng dẫn tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa rõ ràng, khó thực hiện.
Cũng theo Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, việc lồng ghép nguồn vốn giữa các chương trình mục tiêu quốc gia khó thực hiện; tiến độ giải ngân kế hoạch vốn ngân sách trung ương năm 2022 (bao gồm cả kế hoạch vốn năm 2021 chuyển sang thực hiện năm 2022) và giai đoạn 2021-2025 còn chậm.
Tỷ lệ đối ứng vốn địa phương cao, nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trong khi nguồn thu ngân sách nhiều địa phương hạn chế.
Việc giao các tỉnh chủ động cân đối nguồn vốn ngân sách địa phương và huy động các nguồn lực hợp pháp để thực hiện mục tiêu đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu là rất khó khăn, nhất là đối với tỉnh nghèo.
Đáng chú ý, Chính phủ, các bộ, ngành trung ương ban hành văn bản hướng dẫn và giao vốn kế hoạch trung hạn vốn đầu tư và hằng năm còn chậm; trong khi đó, nhiều nội dung khi giao vốn không phù hợp, không có đối tượng để thực hiện. Quy định tỷ lệ vốn đối ứng tăng đang tạo ra áp lực, khó khăn đối với các tỉnh, huyện xã nghèo, ngân sách bao cấp chi thường xuyên hàng năm.
Từ thực tế nêu trên, đoàn giám sát đã đề xuất một số giải pháp tập trung thực hiện trong thời gian tới. Đáng chú ý hơn cả, đoàn giám sát nhấn mạnh: cả 3 chương trình đều có điểm chung là hướng đến người nghèo, vùng nông thôn, dân tộc thiểu số khó khăn. Vì vậy, giải pháp về sinh kế, nâng cao thu nhập cần phải được chú trọng và ưu tiên hàng đầu.
Đúng 2 tháng sau phiên họp nghe báo cáo của đoàn giám sát, sáng 13/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại nhón họp, cho ý kiến về Tờ trình của Chính phủ về kết quả thực hiện, khó khăn vướng mắc trong triển khai 3 chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2021-2023 và đề xuất giải pháp, cơ chế đặc thù tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình trong thời gian tới.
Theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, tiến độ phân bổ, sử dụng nguồn lực thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia năm 2022 tại cả trung ương và các cấp tại địa phương còn chậm, phải báo cáo Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân vốn sang năm 2023 (tại Nghị quyết số 69/2022/QH15 của Quốc hội), dồn áp lực giải ngân vốn trong năm 2023.
Quá trình thực hiện cũng còn khó khăn, vướng mắc về thể chế, chính sách. Cụ thể, qua rà soát, có thể phân loại kiến nghị của địa phương theo các nhóm vấn đề: vướng mắc liên quan đến áp dụng quy định của một số luật chuyên ngành (Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật…) cần nghiên cứu, báo cáo Quốc hội tháo gỡ.
Nhóm vướng mắc về thể chế mang tính đặc thù cá biệt của 1 địa phương, chưa phù hợp với mặt bằng pháp lý áp dụng chung cho các địa phương trên cả nước.
Bên cạnh đó là nhóm vướng mắc về thể chế thuộc thẩm quyền xử lý của địa phương (cơ chế lồng ghép, xác định chi phí quản lý dự án, chi phí bảo trì công trình đặc thù việc phân cấp trong thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất).
Để tháo gỡ khó khăn, Chính phủ đề xuất trình Quốc hội quyết định cho phép Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyết định việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án, kế hoạch, mô hình phát triển sản xuất trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia.
Đề xuất thứ hai là Quốc hội giao chủ trì liên kết, đại diện cộng đồng người dân tự thực hiện việc mua sắm, chủ trì liên kết, đại diện cộng đồng người dân được tự quyết định hình thức mua sắm; đồng thời, tài sản hình thành sau hỗ trợ (nếu có) được chuyển giao cho chủ trì liên kết, cộng đồng người dân quản lý, sử dụng trong suốt vòng đời dự án
Về giao kế hoạch đầu tư công trung hạn đối với các dự án, công trình dự kiến áp dụng cơ chế đặc thù, Chính phủ đề xuất cho phép các địa phương phân bổ, giao dự kiến tổng nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công trung thực hiện các dự án quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp theo cơ chế đặc thù; chưa bắt buộc giao tên danh mục dự án, quy mô dự án cụ thể.
Về giao kế hoạch đầu tư vốn hằng năm, giao danh mục dự án, công trình áp dụng cơ chế đặc thù bảo đảm mức vốn bố trí các dự án này không vượt quá tổng mức vốn trung hạn cho nhóm dự án thực hiện theo cơ chế đặc thù.
Đề xuất nữa của Chính phủ là quy định cho phép các địa phương được sử dụng vốn đầu tư công nguồn ngân sách tự cân đối của địa phương ủy thác qua hệ thống ngân hàng chính sách để cho các đối tượng thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia vay vốn tín dụng ưu đãi trong thực hiện một số nội dung, hoạt động thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia (tương tự cơ chế Quốc hội đã quyết nghị áp dụng cho TP Hồ Chí Minh).
Ngoài ra, Chính phủ cũng đề xuất kéo dài thời hạn thực hiện, giải ngân đến hết ngày 31/12/2024 đối với vốn ngân sách nhà nước của các chương trình mục tiêu quốc gia chưa giải ngân hết trong năm 2023 để bảo đảm đủ nguồn lực cho các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện các nội dung, hoạt động của các chương trình ngay sau khi được Quốc hội cho phép thực hiện các giải pháp về thể chế nêu trên.
Các địa phương được chủ động quyết định việc điều chỉnh vốn giữa các nội dung, dự án trong kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đã được cấp có thẩm quyền giao để đẩy nhanh tiến độ thực hiện (điều chỉnh từ vốn từ các nội dung, dự án không còn đối tượng hỗ trợ, hoặc không giải ngân được vốn để bổ sung vốn cho các nội dung, dự án có khả năng giải ngân vốn), phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn, hoàn thành mục tiêu của từng chương trình.
Một đề xuất nữa của Chính phủ là được thực hiện thí điểm việc phân cấp cho cấp huyện chủ động quyết định, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, danh mục dự án đầu tư thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, Đoàn Giám sát thống nhất cao về sự cần thiết đối với việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, ban hành một số giải pháp, chính sách đặc thù để tháo gỡ vướng mắc, tạo thuận lợi cho các địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các CTMTQG vì mục tiêu đặt lợi ích của Nhân dân lên cao nhất.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm - Phó Trưởng Đoàn Thường trực Đoàn giám sát cho biết, Đoàn Giám sát thống nhất cao về sự cần thiết đối với việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, ban hành một số giải pháp, chính sách đặc thù để tháo gỡ vướng mắc, tạo thuận lợi cho các địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia vì mục tiêu đặt lợi ích của Nhân dân lên cao nhất trong bối cảnh tỷ lệ giải ngân vốn ngân sách nhà nước của các Chương trình này còn tương đối thấp và thời gian thực hiện còn lại không nhiều, trong khi đời sống người dân là đối tượng thụ hưởng còn nhiều khó khăn.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đoàn giám sát đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, đồng ý chủ trương đối với nội dung đề xuất của Chính phủ, cho phép quy định các nội dung về giải pháp, cơ chế đặc thù trong Nghị quyết giám sát chuyên đề của Quốc hội mà không ban hành Nghị quyết riêng; Về thời gian thực hiện, thống nhất với đề xuất của Chính phủ là chỉ áp dụng quy định đến hết năm 2025 để phù hợp với thời gian thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Sau đó, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện các Chương trình, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định việc thực hiện trong giai đoạn tiếp theo.
Liên quan đến các đề xuất cụ thể của Chính phủ:
Thứ nhất, về việc đề xuất trình Quốc hội quyết định “cho phép Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyết định việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án, kế hoạch, mô hình phát triển sản xuất trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia’’, Đoàn Giám sát thống nhất cao với ý kiến của Ủy ban Pháp luật, đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý đưa nội dung này vào Nghị quyết giám sát trình Quốc hội và thực hiện đến hết năm 2025 như sau:
(i) Đối với các địa phương chưa ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nội dung này thì giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án, mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia.
(ii) Đối với các địa phương đã ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nội dung này thì trong quá trình triển khai thực hiện, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được điều chỉnh trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án, mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia và báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp tại kỳ họp gần nhất.
Thứ hai, đề xuất Quốc hội giao chủ trì liên kết, đại diện cộng đồng người dân tự thực hiện việc mua sắm, chủ trì liên kết, đại diện cộng đồng người dân được tự quyết định hình thức mua sắm; đồng thời, tài sản hình thành sau hỗ trợ (nếu có) được chuyển giao cho chủ trì liên kết, cộng đồng người dân quản lý, sử dụng trong suốt vòng đời dự án.
Đoàn Giám sát đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý chủ trương đối với các đề xuất này của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (sau khi báo cáo Chính phủ có Tờ trình, trong đó làm rõ việc tự thực hiện mua sắm nghĩa là không qua đấu thầu theo quy định của Luật đấu thầu), cho phép đưa cơ chế đặc thù về sử dụng ngân sách nhà nước và quản lý tài sản hình thành sau hỗ trợ khi kết thúc dự án vào dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội xem xét, quyết định và giao Chính phủ quy định chi tiết việc quản lý, sử dụng tài sản hình thành sau hỗ trợ khi kết thúc dự án.
Thứ ba, về cơ chế giao danh mục dự án đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư vốn hằng năm đối với dự án quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp thực hiện theo cơ chế đặc thù, Đoàn Giám sát cho rằng, đây là đề xuất phù hợp, cần phải xử lý, tháo gỡ ngay để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các CTMTQG, đồng thời thực hiện nguyên tắc tăng cường sự tham gia của cộng đồng và người dân.
Vì vậy đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép đưa vào Nghị quyết Đoàn Giám sát trình Quốc hội thảo luận để áp dụng thí điểm đến hết năm 2025; nhưng cần xác định tiêu chí thế nào là quy mô nhỏ, kỹ thuật, không phức tạp (có áp dụng quy định về công trình quy mô nhỏ dưới 5 tỷ như Luật đấu thầu hay không).
Thứ tư, đối với đề xuất cơ chế ủy thác nguồn vốn ngân sách nhà nước của địa phương qua hệ thống ngân hàng để hỗ trợ thực hiện các CTMTQG, chính sách này hiện không được quy định trong các Luật hiện hành nhưng đã được áp dụng thí điểm cho thành phố Hồ Chí Minh. Đoàn Giám sát thống nhất với đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép đưa vào Nghị quyết Đoàn Giám sát trình Quốc hội.
Thứ năm, về kiến nghị cho phép kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân đến hết 31/12/2024 đối với vốn ngân sách nhà nước dành cho các CTMTQG năm 2023, Đoàn giám sát cho rằng việc chậm triển khai các CTMTQG có nguyên nhân từ việc chậm phân bổ vốn (đến tháng 5/2022) và chậm ban hành văn bản hướng dẫn, do đó, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc báo cáo Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện vốn ngân sách nhà nước chưa giải ngân hết đến năm 2023 (bao gồm cả ngân sách năm 2022, 2023) sang đến tháng 10/2024.
Thứ sáu, về thực hiện thí điểm việc phân cấp cho cấp huyện chủ động quyết định, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, danh mục dự án đầu tư thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, Đoàn giám sát đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ hoàn thiện hồ sơ, trình Quốc hội ban hành Nghị quyết thí điểm riêng về vấn đề này.
Ngoài các nội dung kiến nghị nêu trên, Đoàn giám sát đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì tiếp tục rà soát để giải quyết những vấn đề tồn tại, vướng mắc đã được Đoàn giám sát nêu trong Báo cáo kết quả giám sát để thúc đẩy nhanh việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các địa phương trong quá trình triển khai, thực hiện.
Đồng thời hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội để gửi thẩm tra, trong đó cần có: (i) Tờ trình của Chính phủ; (ii) dự thảo Phần nội dung đưa vào Nghị quyết giám sát của Quốc hội; (iii) Báo cáo đánh giá tác động; (iv) Ý kiến của các Bộ, ngành và các cơ quan có liên quan; các tài liệu khác (nếu có) theo quy định, hoàn thành trước ngày 16/10/2023.