Vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu không phải là những câu chuyện, những cảnh báo mà nó hiện hữu luôn đe dọa đến cuộc sống của chúng ta.
Cộng đồng dân tộc thiểu số Việt Nam gồm 53 dân tộc thiểu số, với gần 14 triệu người, sinh sống trên diện tích 17 triệu ha, chiếm hơn 50% lãnh thổ Việt Nam, tập trung ở các vùng núi, trung du, ven biển, cửa sông, rừng đầu nguồn và các lưu vực sông, rừng ven biển, vùng sâu, vùng xa... nơi luôn bị tác động mạnh mẽ của thiên tai.
Biến đổi khí hậu đang gây tổn thất nặng nề về môi trường, kinh tế, sức khỏe, đời sống tinh thần cho cộng đồng dân tộc thiểu số, văn hóa của cộng đồng đang bị mai một... Tất cả đều diễn ra ngày càng mạnh hơn, tần suất nhiều hơn vào những năm gần đây.
Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, các nguồn nước suy giảm mạnh, không khí bị ô nhiễm nặng, tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác quá mức...
Cộng đồng dân tộc thiểu số ngày càng nhìn nhận rõ hơn tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đến đời sống hàng ngày tại các địa phương.
Tỉnh Lâm Đồng cho biết, mưa, nắng nóng, lạnh thất thường không theo quy luật, sương muối, rét đậm, rét hại kéo dài ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, vật nuôi. Lũ quét, sạt lở đất làm cho các công trình giao thông, thủy lợi hư hỏng, tài sản bị mất, tính mạng của người dân cũng bị đe dọa.
Các tỉnh miền núi như Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, khu vực Tây Nguyên thường bị sạt lở đất do mưa kéo dài, mất nhiều diện tích đất sản xuất, chủ yếu là ruộng, vườn ven khe lạch. Tình trạng hạn hán kéo dài dẫn đến không có nước sinh hoạt, sản xuất. Tỉnh Ninh Thuận từng có thời điểm tới 16 tháng không có mưa.
Ở Tây Nguyên, các hồ chứa, sông, suối, nước ngầm bị cạn kiệt. Rừng nguyên sinh bị suy giảm làm mất đa dạng sinh học. Rừng ở Buôn Đôn (Đắk Lắk), rừng ở Ba Tri (Phú Thọ), rừng Suối Tiên ở Cát Tiên (Lâm Đồng) bị thu hẹp, chim, thú mất dần.
Cộng đồng các dân tộc thiểu số đang chủ động khắc phục khó khăn, giảm thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra và dần thích ứng với biến đổi khí hậu. Những nỗ lực này đã có một số kết quả bước đầu, nhưng kết quả ấy còn thiếu tính bền vững.
Để đồng bào chúng ta tiếp tục có cuộc sống ổn định, bảo đảm được các điều kiện về sức khỏe, thuận lợi trong sản xuất để mưu sinh, thì phải có một vốn kiến thức nhất định về môi trường. Cộng đồng dân tộc thiểu số cần được cung cấp thông tin liên quan bằng tiếng, chữ dân tộc và tham vấn ý kiến để có sự đồng thuận của người dân khi quy hoạch, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng như thủy điện, giao thông, khai khoáng...
Bên cạnh đó, cũng cần được hỗ trợ thành lập Quỹ bù đắp thiệt hại cho đồng bào dân tộc thiểu số để ứng phó với biến đổi khí hậu. Các chính sách hỗ trợ thiệt hại do thiên tai gây ra, nhất là về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, các công trình giao thông, thủy lợi, trường học bị sạt lở, ngập lụt.
Đồng thời, phải có nguồn tài chính, kinh phí để đền bù, hỗ trợ khắc phục thiệt hại và ứng phó với biến đổi khí hậu do đồng bào dân tộc thiểu số tự quản lý; có cơ chế để người dân tộc thiểu số được tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu; hạn chế ngăn sông, suối làm thủy điện, khai thác các mỏ; làm tốt công tác cứu hộ, cứu nạn kịp thời, nhanh chóng và theo phương châm bốn tại chỗ: “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ”; có chính sách phù hợp để người dân ổn định đời sống, hạn chế du canh du cư tự do.
Cơ quan chức năng tiếp tục triển khai, mở rộng giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+), cấp chứng chỉ cacbon, chi trả trực tiếp cho người dân; có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm trong việc sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Cộng đồng dân tộc thiểu số cần được nâng cao năng lực để có khả năng tự chống đỡ với thiên tai, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu để sống và sản xuất bền vững.