Nhiều sản phẩm của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được đầu tư theo hướng sản xuất hàng hóa, xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn với những những truyền thống văn hóa tập tục… điều làm nên sự hấp dẫn trong mắt người tiêu dùng hiện đại. 

Không ít sản phẩm đã trở thành thế mạnh của của địa phương được tiêu thụ ở các kênh phân phối và xuất khẩu. Từ đó không chỉ giúp bà con ổn định thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn phát triển kinh tế - xã hội, quảng bá được truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc ở các địa phương.

Song đây chỉ là một số doanh nghiệp và hợp tác xã tiên phong, tiêu biểu, còn rất nhiều sản phẩm xanh và sạch, chứa đựng những bí quyết canh tác, chế biến có tuổi đời hàng trăm năm trong đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa được khai thác ở quy mô sản xuất hàng hoá.

Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 đã và đang là động lực thúc đẩy phát triển thị trường, tạo ra nền tảng căn bản cho sản xuất sản phẩm, hàng hóa khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tuy nhiên, việc kết nối, phát triển thị trường cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ các cấp, ngành, địa phương và doanh nghiệp để tạo lực đẩy cho sản phẩm khu vực này có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng tại thị trường trong và ngoài nước.

Giai đoạn vừa qua có những bước tiến quan trọng trong việc thương mại hóa và đưa sản phẩm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi vào kênh phân phối tại thị trường trong nước cũng như xuất khẩu.

Bà Lê Việt Nga, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho biết, giai đoạn vừa qua có những bước tiến quan trọng trong việc thương mại hóa và đưa sản phẩm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi vào kênh phân phối tại thị trường trong nước cũng như xuất khẩu.

Theo đó, Bộ Công Thương đã có giải pháp cũng như Chương trình để triển khai các chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Giai đoạn trước năm 2019 là các Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia,chương trình khuyến công, chương trình đưa hàng hóa, thực phẩm an toàn vào kênh phân phối…

Nhiều đề án, chương trình khác cũng dành một lượng không gian cũng như kinh phí cho các tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số triển khai. Đây chính là những giải pháp quan trọng để hỗ trợ đưa những hàng hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đến với người tiêu dùng trong nước và quốc tế.

Đặc biệt, năm 2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88 phê duyệt Đề án phát triển tổng thể kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2030. Đây là nghị quyết hết sức quan trọng mà Bộ Công Thương cùng với Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành khác trình Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn đến năm 2030.

Mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ để sản phẩm của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tạo lập được thương hiệu, xây dựng bản sắc giúp nâng cao khả năng cạnh tranh nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều sản phẩm được đưa ra thị trường, tiếp cận với những hệ thống phân phối hiện đại.

TS. Võ Trí Thành Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh phân tích, thương hiệu là cái “giá” mà đối tác, khách hàng, người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm cho sản phẩm. Sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có 2 giá trị khác biệt: sản phẩm được sản xuất theo xu hướng xanh, an toàn và sản phẩm gắn với truyền thống, văn hoá của bản địa.

Điểm mạnh của các sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đó là có truyền thống, lịch sử và nét văn hóa. Hơn nữa, sản phẩm còn gắn với xu thế, đó là câu chuyện xanh, lối sống, cách sống và nhất là phân khúc tầng lớp trung lưu, tầng lớp trẻ hiện nay, sống xanh, an toàn, nhân văn,…

Thế nhưng để làm được điều này, cần sự hỗ trợ từ nhiều phía gắn với cốt lõi để tạo ra giá trị thương hiệu. Đặc biệt, sản phẩm của đồng bào dân tộc không chỉ là kết nối của chính giá trị đem lại mà còn là sức sống của nhiều dân tộc Việt. Do vậy, cần nhìn rõ giá trị để hỗ trợ, qua đó giúp thương hiệu sản phẩm khu vực miền núi nổi bật và vươn xa

Tuy nhiên, hạn chế là người dân chưa biết cách khai thác và gìn giữ nên có nhiều thương hiệu sản phẩm đã chìm xuống và hiện nay có rất nhiều sản phẩm đặc sản chưa có thương hiệu riêng mà chỉ gắn với vùng miền và nguồn lực chưa đủ để phát triển toàn diện, bao trùm… Đây là những điều cần thiết để xây dựng và phát triển thương hiệu cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Lê Bá Ngọc - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ Việt Nam trăn trở với câu hỏi, làm thế nào để sản phẩm của bà con, sau khi được đào tạo nghề và thành thạo, được tiêu thụ trên thị trường nhiều hơn?

Ông đánh giá, nhiều chương trình, hoạt động thiết thực hỗ trợ bà con phát triển nghề thủ công mỹ nghệ, nghề đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được xây dựng trong những năm qua.

Vùng miền là tốt, có tính lan toả tốt, nhưng để nhận diện được trong vùng miền đó có hình ảnh, có vai trò, có nỗ lực, cho chất riêng, chất đặc sắc mà doanh nghiệp tạo ra sản phẩm vùng miền ấy thì đó là vấn đề. Bà con đồng bào dân tộc còn hạn chế về tư duy thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm, vì vậy cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ phía Chính phủ, chính quyền địa phương, bộ, ngành chức năng.

Để định vị thương hiệu cho sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đồng thời định vị thương hiệu cho vùng miền, cho doanh nghiệp, ông Ngọc nhấn mạnh tới việc xác định đúng nhu cầu của thị trường và có các sản phẩm phù hợp với các phân khúc trung cấp và cao cấp.

"Phải gắn truyền thống văn hóa của bà con với phát triển thương hiệu vùng miền và xây dựng thương hiệu quốc gia. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần định vị được không gian của hàng thủ công vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi", ông nhận định.

Ông Lê Bá Ngọc cũng đề xuất tăng cường hơn nữa công tác liên kết giữa các hộ sản xuất với doanh nghiệp nhằm tạo ra chuỗi sản xuất bền vững. Các cấp, các ngành, các tổ chức và chính quyền địa phương chung tay phối hợp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá sản phẩm một cách chuyên nghiệp hơn. Đặc biệt, là cần ban hành thêm những chính sách mạnh mẽ hơn để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Bên cạnh đó, xây dựng các "tích truyện" gắn với sản phẩm. Thông qua già làng, nghệ nhân, họ có thể kể những câu chuyện, những hiểu biết để tạo nên "chiều sâu" cho sản phẩm, giúp chúng được phổ biến rộng rãi hơn trên không gian mạng.

Để định vị được thương hiệu cho sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cần chú ý 6 yếu tố: xác định đúng nhu cầu của thị trường và có các sản phẩm phù hợp với từng phân khúc (trung cấp - cao cấp); gắn truyền thống văn hoá với phát triển thương hiệu vùng miền và xây dựng thương hiệu quốc gia; định vị được không gian của hàng thủ công vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường công tác liên kết giữa hộ sản xuất với doanh nghiệp; cần quảng bá chuyên nghiệp hơn và cần những chính sách mạnh mẽ hơn thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.

Vân Anh và nhóm PV, BTV