Theo ông Trương Quốc Cần, Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển Kinh tế Xã hội Nông thôn và Miền núi: trong 2 thập kỷ qua, nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội và văn bản thực thi chính sách của Chính phủ về đất đai với đồng bào dân tộc thiểu số đã được ban hành và triển khai.
Gần đây nhất, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tiếp tục nhấn mạnh định hướng chỉ đạo của Đảng trong vấn đề này. Trong đó nêu rõ mục tiêu đến năm 2025 sẽ giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến quản lý và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh…; đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Việc sửa đổi Luật Đất đai 2013 là một cơ hội để giải quyết một số vướng mắc cơ bản liên quan đến giao đất, giao rừng, đất tín ngưỡng, tiếp cận thông tin và trợ giúp pháp lý đất đai nhằm tăng cường tiếp cận và hưởng dụng đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số, ổn định cuộc sống của người dân, đồng thời góp phần bảo vệ và phát triển rừng một cách hiệu quả.
Theo ông Trương Quốc Cần, khả năng tiếp cận và hưởng dụng đất, rừng được xem là một yếu tố có vai trò quyết định đối với sinh kế, văn hóa và môi trường sống của người dân tộc thiểu số (đất đai đóng góp khoảng 28-40% vào các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ gia đình dân tộc thiểu số).
Báo cáo nghiên cứu khả thi Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2011-2030 cho thấy, năm 2019, cả nước có khoảng 514 nghìn hộ dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất hoặc đất ở và nhà ở. Nhiều địa phương cho rằng nguồn lực, quỹ đất rất khó khăn và mức hỗ trợ thấp. Trên thực tế, diện tích đất chưa sử dụng của cả nước có 1,2 triệu ha, trong đó, đất đồi núi chưa sử dụng còn 908,56 nghìn ha.
Bởi vậy, Luật Đất đai (sửa đổi) cần có quy định để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tạo quỹ đất để giao cho đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu đất ở, đất sản xuất, như: Bổ sung "dự án tạo quỹ đất để bố trí đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất" vào danh mục các dự án được thu hồi đất vì mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; có quy định cụ thể về nguyên tắc, quy trình phù hợp để giao/cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đồng bào dân tộc thiểu số trong các trường hợp mà hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ, hoặc các trường hợp có chồng lấn, tranh chấp.
Bên cạnh đó, Luật Đất đai (sửa đổi) cần có quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhằm giải quyết dứt điểm việc chậm trễ tiến độ giao đất, giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số như: Rà soát và bổ sung các điều khoản quy định liên quan đến thông tin đất đai và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để đảm bảo hệ thống thông tin phản ánh đúng hiện trạng sử dụng đất; rà soát và bổ sung các điều khoản liên quan đến giao đất cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm bảo đảm sự nhất quán giữa Luật Đất đai với Luật Lâm nghiệp và các quy định của luật khác...
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, tính đến hết năm 2020, diện tích đất có rừng trên cả nước đạt 14.677.215 ha, trong đó: rừng tự nhiên 10.279.185 ha; rừng trồng 4.398.030 ha.
Hiện trạng rừng theo chủ quản lý vào năm 2020: diện tích do các Ban quản lý rừng quản lý 5.207.573 ha, chiếm 35%; các hộ gia đình quản lý 3.193.169 ha, chiếm 21%; các UBND cấp xã tạm quản lý 2.940. 484 ha, chiếm 20%; các tổ chức kinh tế quản lý sử dụng 1.743.854 ha, chiếm 12%; còn lại là các tổ chức khác 325.545 ha, chiếm 2%.
Trung Vũ