{keywords}

Trong quá trình tra tìm tư liệu, đội ngũ cán bộ Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đã phát hiện nhiều bản khắc mộc bản thể hiện chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Trong 2 bộ sách với 20 quyển, ghi chép về địa lý Việt Nam là những bản khắc cổ nhất được tìm thấy, trong đó, mô tả vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và ghi lại quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

{keywords}
{keywords}

Theo các nhà tra cứu, mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 22, mặt khắc 2 có ghi: tháng 7, năm Quý Hợi (1803): “Lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”.

Vua đã phái đội Hoàng Sa ra đảo thám đạc thủy trình, mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 50, mặt khắc 6 có ghi: tháng 2, năm Ất Hợi (1815), vua “Sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò, đo đạc thủy trình”.

Trên cơ sở của các cuộc thăm dò đường biển đến đảo Hoàng Sa, tiếp nối sự nghiệp của vua cha, vua Minh Mạng đã nhiều lần phái người ra vẽ bản đồ của đảo. Có thể nói, hoạt động thực thi chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa dưới triều vua Minh Mạng đã phát triển cao và toàn diện hơn so với trước đó.

Năm Quý Tỵ (1833), vua Minh Mạng đã chủ trương đưa người ra Hoàng Sa dựng miếu, trồng cây và cắm mốc chủ quyền quốc gia. Các năm sau đó, vua Minh Mạng tiếp tục phái người ra dựng miếu, lập đền, dựng bia đá… Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154, mặt khắc 4 ghi rõ: tháng 6, năm Ất Mùi (1835): “Dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa – Quảng Nghĩa. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Nghĩa, có một cồn cát trắng, cây cối xanh um. Giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc bốn chữ: “Vạn Lý Ba Bình – có nghĩa: Vạn dặm sóng êm”. Cồn Bạch Sa (tức “Cồn cát trắng”) có chu vi 1.070 trượng, tên cũ là núi Phật tự, bờ phía đông, tây, nam, đều có đá san hô vòng quanh mặt nước, phía bắc tiếp giáp với một cồn toàn đá san hô, nổi lên sừng sững, có chu vi rộng 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, sánh cùng với đồi cát gọi là bàn than thạch” (bãi đá lớn).

{keywords}

Năm ngoái, vua đã đến nơi này để dựng miếu lập bia, nhưng vì sóng to gió lớn nên không làm được. Đến đây bèn sai Cai đội thủy quân Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng với phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định vận chuyển vật liệu đến dựng miếu (cách miếu cổ 7 trượng). Bên trái miếu dựng bia đá, phía trước miếu dựng bình phong, mươi ngày làm xong rồi về”.

Mộc bản Đại Nam nhất thống chí, quyển 122 đã ghi lại chỉ dụ của Vua Minh Mạng: “năm Giáp Ngọ (1834) Minh Mệnh thứ 15, tháng 3 mùa xuân sai Giám thành Ðội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng 20 thủy quân đáp thuyền đến xứ Hoàng Sa, Quảng Nghĩa vẽ bản đồ rồi về. Nhà vua hỏi về sản vật tại nơi này, Sĩ tâu xứ này bãi cát rộng lớn không có bến bờ; nhân đem những đồ bắt được như chim chóc, cá, ba ba, ốc, sò dâng lên; phần lớn là những vật lạ người ta ít khi được thấy. Vua triệu các Thị thần cho xem, cùng thưởng cho những người đi tiền bạc nén có sai biệt”.

{keywords}

Về vị trí của quần đảo Hoàng Sa, tại Quyển 6, mặt khắc 18 ghi rõ: “Đảo Hoàng Sa: ở phía Đông đảo Lý (Cù Lao Ré). Từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra, thuận gió thì độ 3, 4 ngày đêm có thể đến nơi, trên đảo quần tụ rất nhiều núi, có đến hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường, hoặc mấy trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là bãi “Vạn Lý Trường Sa” (Bãi cát dài vạn dặm), trên đảo có nguồn nước ngọt chảy ra, chim biển quần tụ… Sản vật nhiều ốc hoa, hải sâm, đồi mồi, vích...

Hồi đầu bản triều có đặt đội Hoàng Sa, có 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào hằng năm, cứ tháng 3 là ra biển tìm kiếm hải vật, đến tháng 8 mang về cửa biển Tư Hiền để nộp, lại đặt đội Bắc Hải, do đội Hoàng Sa kiêm quản, để đi lấy hải vật của các đảo.

Đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò đường biển. Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả, hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2.000 cân”.

Mộc bản “Hải Ngoại Kỷ Sự”, Sư Thích Đại Sán có đoạn chép về Biển Đông: “Khách có người bảo: mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước và sau mùa lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng 4, 5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần nổi lên, nước chảy về hướng Đông, sức gió Nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về phía Đông, lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn.

Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng dọc biển, chạy từ Đông Bắc qua Tây Nam; đống cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển, mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền đụng phải hẳn tan tành; bãi cát rộng hàng trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể gọi là Vạn lý Trường Sa, mù tít chẳng có cây, nhà cửa. Nếu thuyền bị trái gió, trái nước mà lạc vào, dẫu không tan nát cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt 7 ngày đường, chừng 700 dặm. Quốc Vương trước, hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc từng bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào. Mùa thu nước ròng cạn rút về phía Đông, bị một ngọn sóng đưa đi, thuyền có thể trôi xa hàng trăm dặm; sức gió chẳng mạnh sợ gặp hiểm hoạ Trường Sa”.

{keywords}

Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10 thời chúa Nguyễn Phúc Khoát chép: “Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là “Vạn lý Trường Sa”. Chúa Nguyễn Phúc Chu, vào năm 1711, ra chiếu dụ, sai các quan văn võ, thiên văn, địa lý hội họp quốc sự và sai đo vẽ quần đảo Vạn lý Trường Sa, chính thức xác lập vùng biển đảo Trường Sa - Hoàng Sa vào địa lý Việt Nam. Các chúa đã cho lập hải đội Hoàng Sa có chỉ dụ hành chính của triều đình với nhiệm vụ bảo vệ, khai thác tài nguyên và xác định vị trí địa lý trên các đảo là vùng biển đảo của Việt Nam.

Tư liệu trên mộc bản cho cho thấy, triều đình cũng như ngư dân vùng biển đã nhiều lần cứu hộ tàu, thuyền nước ngoài gặp nạn ở Hoàng Sa. Năm Canh Dần (1830), thuyền buôn của Pháp bị mắc cạn và đắm tại phía tây đảo Hoàng Sa, viên Thủ ngự cửa biển Đà Nẵng đã ra lệnh cho thuyền của cảng mang theo nước ngọt ra biển tìm kiếm, hộ tống những người gặp nạn trên biển đưa về cảng an toàn…

Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 176, cho biết: “Mùa đông, tháng 12, năm Bính Thân (1836), thuyền buôn Anh Cát Lợi đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm, hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.

Vua nghe tin, dụ: Cho các tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến phiên dịch để gửi lời thăm hỏi, tuyên chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu.

Vua nói: “Họ, tính vốn cứng đầu, kiêu ngạo, nay được đội ơn, bỗng cảm hóa đổi được tục man di, thật rất đáng khen”. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải, những người tùy tùng mỗi người 1 bộ quần áo bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang đầu bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

{keywords}

Với giá trị sử liệu quý giá như vậy, biên niên sử mộc bản triều Nguyễn đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới vào ngày 31/7/2009. Động thái này thể hiện sự trân trọng của cộng đồng quốc tế đối với khối tài liệu giá trị của Việt Nam.

Hà Yên
Ảnh: Trà My
Video: Vân Anh, Bạch Hân , Lan Anh

21/11/2021 05:11