Vùng Đông Nam bộ gồm TPHCM và 5 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh. Đây là vùng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Việc xây dựng quy hoạch phải phát huy nội lực con người, thiên nhiên, truyền thống văn hóa, lịch sử và các nguồn lực bên ngoài để phát triển toàn diện, bền vững.

Vì vậy phát triển hiệu quả các đô thị lớn trong vùng trở thành các thành phố hiện đại mang tầm cỡ khu vực là một vấn đề quan trọng, góp phần phát triển toàn diện Đông Nam Bộ trở thành vùng văn minh, hiện đại, hội nhập quốc tế.

Hội đồng điều phối vùng Đông Nam Bộ (Hội đồng) là tổ chức phối hợp liên ngành do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, thực hiện chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, điều phối, giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành về liên kết vùng, phát triển bền vững vùng Đông Nam bộ.

Hôm 26/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng chủ trì Hội nghị lần thứ hai của Hội đồng để tham vấn về Quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Mở đầu Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh từ sau Đại hội lần thứ XIII, Bộ Chính trị đã ban hành 6 Nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng 6 vùng trong cả nước.

Quốc hội, Chính phủ ban hành các Nghị quyết triển khai, cụ thể hóa các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội các vùng, trong đó có vùng Đông Nam Bộ.

Xác định quy hoạch phải đi trước một bước, phải có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; giải quyết những khó khăn, vướng mắc, thách thức, đồng thời chỉ ra, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của nơi được quy hoạch. Hiện nay, cả nước đã có 107/111 quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia đã hoàn thành việc lập, thẩm định và phê duyệt. Qua đó, việc triển khai lập và hoàn thiện quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ trong thời điểm này có rất nhiều thuận lợi.

Thủ tướng yêu cầu Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ phải cụ thể hóa tầm nhìn, quan điểm, mục tiêu đã được xác định tại Nghị quyết Phát triển Vùng và Quy hoạch cấp Quốc gia vào Vùng; cụ thể hóa việc bố trí không gian phát triển các ngành quốc gia trên địa bàn; triển khai nghiên cứu các dự án mang tính kết nối quan trọng giữa các tỉnh trong vùng, liên vùng và liên ngành.

Việc xây dựng Quy hoạch Vùng phải phát huy nội lực con người, thiên nhiên, truyền thống văn hóa, lịch sử và các nguồn lực bên ngoài về tài chính, công nghệ, quản lý… để phát triển toàn diện, bền vững vùng Đông Nam Bộ - vùng động lực, cực tăng trưởng của cả nước.

Theo Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mục tiêu tổng quát cho phát triển và tổ chức không gian Vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực… 

Theo đó, Vùng sẽ bao gồm 3 tiểu vùng là Tiểu Vùng Trung tâm, Tiểu Vùng Ven biển và Tiểu Vùng Phía Bắc.

Tại Phiên họp báo cáo Khung định hướng Quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 diễn ra ngày 16/8, Viện Chiến lược Phát triển - đơn vị tư vấn quy hoạch - cho biết dù đến năm 2022, GRDP của Vùng đạt 2,95 triệu tỷ đồng, chiếm 31,04% GDP cả nước, đứng thứ 1/6 vùng.

Tuy nhiên, Vùng cũng gặp nhiều khó khăn như đang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhất là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh; chất lượng lao động thấp hơn vùng Đồng bằng Sông Hồng; tỷ lệ thất nghiệp cao hơn trung bình cả nước; lao động nhập cư đến vùng cao; diện tích đất bằng chưa sử dụng còn rất ít so với các vùng khác…

Trên cơ sở đó, Viện Chiến lược Phát triển đã dựa trên các giả định và biến đầu vào như Tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư; Biến đổi về nhân khẩu học; Vấn đề xã hội; Biến đổi khí hậu; Cách mạng Công nghiệp 4.0; Yếu tố từ bối cảnh kinh tế-xã hội-môi trường của Việt Nam và Yếu tố nội tại của Vùng Đông Nam Bộ, để đưa ra 3 kịch bản tăng trưởng thời kỳ 2021-2030.

Trong đó, ở kịch bản 1 (kịch bản thấp) có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 4,92%/năm trong giai đoạn 2021-2025; đạt bình quân 7,18%/năm trong giai đoạn 2026-2030.

Tính chung cả giai đoạn 2021-2030 đạt bình quân 6,04%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 6,85%/năm.

Trong giai đoạn 2021-2030, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt 46,8%; tăng trưởng năng suất lao động đạt bình quân 5,4%/năm.

Dự báo đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 200 triệu đồng, tương đương 8.200 USD/người; đến năm 2030 đạt khoảng 315 triệu đồng, tương đương 11.800 USD; đến năm 2050 đạt 38.500 USD.

Dự kiến cần lượng vốn đầu tư khoảng 11,4 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2030, gấp 2,1 lần giai đoạn 2011-2020. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GRDP theo giá hiện hành vào khoảng 27%.

Với kịch bản 2 (kịch bản trung bình), có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,48%/năm trong giai đoạn 2021-2025; đạt bình quân 8,66%/năm trong giai đoạn 2026-2030.

Tính chung cả giai đoạn 2021-2030 đạt bình quân 7,06%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,2%/năm.

Trong giai đoạn 2021-2030, đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt 50,9%; tăng trưởng năng suất lao động đạt bình quân 6,4%/năm.

Dự báo đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 205 triệu đồng, tương đương 8.400 USD/người; đến năm 2030 đạt khoảng 345 triệu đồng, tương đương 13.000 USD; đến năm 2050 đạt 45.000 USD.

Dự kiến cần lượng vốn đầu tư khoảng 12,3 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2030, gấp 2,3 lần giai đoạn 2011-2020. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GRDP theo giá hiện hành vào khoảng 28%.

Cuối cùng là kịch bản 3 (kịch bản “phấn đấu”), có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,97%/năm trong giai đoạn 2021-2025 (trong đó, ba năm 2021-2023: 3,88%/năm; hai năm 2024-2025: 9,18%/năm); đạt bình quân 10,2%/năm trong giai đoạn 2026-2030.

Tính chung cả giai đoạn 2021-2030 đạt bình quân 8,07%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,6%/năm.

Trong giai đoạn 2021-2030, đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt 58,5%; tăng trưởng năng suất lao động đạt bình quân 7,4%/năm.

Dự báo thu nhập bình quân đầu người đến năm 2025 đạt khoảng 210 triệu đồng, tương đương 8.600 USD/người; đến năm 2030 đạt khoảng 380 triệu đồng, tương đương 14.500 USD; đến năm 2050 đạt 53.000 USD.

Dự kiến cần lượng vốn đầu tư khoảng 15,8 triệu tỷ đồng giai đoạn 2021-2030, gấp 3 lần giai đoạn 2011-2020. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GRDP theo giá hiện hành vào khoảng 32%.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh quy hoạch là cơ hội để tính toán, định hướng làm sao để giải quyết được bài toán về các điểm nghẽn, thách thức, cản trở, mâu thuẫn, xung đột trong quá trình phát triển vừa qua; đồng thời cũng khai thác được nguồn lực mới. Do đó, các kịch bản tăng trưởng cần chú trọng các yếu tố đột phá để tạo ra các động lực tăng trưởng mới cho Vùng Đông Nam Bộ.

Mục tiêu tăng trưởng của Vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030 sẽ là phát triển vùng theo hướng bền vững, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đồng thời, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển.

Cùng với đó, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ chất lượng cao; huy động tối đa nguồn nội lực cho phát triển, kết hợp hài hòa với ngoại lực để phát triển nhanh, bền vững, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Một trong những giải pháp quan trọng để bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng Đông Nam Bộ là phát triển kinh tế theo hướng sinh thái, tuần hoàn.

Tại Hội nghị lần thứ nhất Hội đồng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh nhấn mạnh, trước những thách thức về môi trường, ngập úng và biến đổi khí hậu, thời gian tới, các địa phương trong vùng cần tập trung phát triển kinh tế theo hướng sinh thái, tuần hoàn.

Trên cơ sở đó, với vai trò là Phó Chủ tịch Hội đồng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đề xuất 6 nhóm giải pháp để xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường, ngập úng và thích ứng với biến đổi khí hậu trong vùng.

Thứ nhất là về lập và phê duyệt quy hoạch vùng Đông Nam Bộ. Ông Khánh nhấn mạnh quy hoạch này cần phải đảm bảo kết nối phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường giữa các tỉnh, thành phố trong vùng; các nội dung về bảo vệ môi trường cần được tiếp cận và điều phối mang tính tổng thể ở quy mô cấp vùng.

Trong đó, các quy hoạch tỉnh cần xác định rõ các mục tiêu về bảo vệ môi trường như: Bảo đảm tỷ lệ che phủ rừng; phân loại chất thải rắn sinh hoạt đô thị tại nguồn, tái chế, tái sử dụng chất thải; xử lý nước thải sinh hoạt đô thị và khu dân cư tập trung; quản lý chất lượng môi trường không khí; bảo đảm môi trường sinh thái trong đô thị, khu dân cư tập trung; lồng ghép kinh tế tuần hoàn trong quy hoạch.

Đặc biệt, đối với nhóm giải pháp thứ hai, ông Khánh đề nghị vùng tập trung phát triển kinh tế theo hướng sinh thái, tuần hoàn, tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, kinh tế các bon thấp, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững; trong đó cần chú trọng phát triển không gian xanh, công trình xanh, đô thị sinh thái, đô thị thông minh.

Thứ ba là chủ động kiểm soát các nguồn thải lớn, cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Theo đó, các tỉnh cần ngăn chặn các tác động xấu đối với môi trường thông qua mô hình tổ giám sát đối với dự án, cơ sở sản xuất lớn, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường cao; phân luồng các dự án đầu tư mới theo mức độ tác động đến môi trường ngay từ khi phê duyệt chủ trương đầu tư.

Đối với nhóm giải pháp thứ tư, Bộ trưởng Đặng Quốc Khách cho rằng Vùng Đông Nam Bộ cần tăng cường huy động mọi nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường; duy trì, cải thiện chất lượng môi trường.

Trong đó, với môi trường nước và lưu vực sông Đồng Nai, Nhà nước cần xây dựng chương trình đầu tư tổng thể về việc tăng cường đầu tư các nhà máy thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Trước mắt, vùng cần ưu tiên cho các đô thị có hoạt động xả thải ra lưu vực sông và xử lý nước thải, cải tạo, khôi phục lại các đoạn sông, kênh, rạch đã bị ô nhiễm bằng các nguồn vốn Nhà nước và xã hội hóa.

Với môi trường không khí, các tỉnh trong vùng cần xây dựng, thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh, đặc biệt chú trọng các đô thị lớn; đẩy mạnh phát triển hệ thống trạm quan trắc không khí tự động; đầu tư, ứng dụng công nghệ để hoàn thiện nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo chất lượng môi trường.

Cùng với đó, các địa phương trong vùng cần tổ chức quy hoạch, đầu tư xây dựng các khu xử lý chất thải rắn tập trung đảm bảo thu gom, xử lý được toàn bộ chất thải rắn phát sinh trên địa bàn; tổ chức phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, áp dụng kinh tế tuần hoàn trong phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Thứ năm, với các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh đề nghị các tỉnh nghiên cứu, thực hiện các giải pháp công trình và phi công trình giúp duy trì và tăng cường “không gian cho sông” và gìn giữ, phát triển “kho chứa nước” để tích trữ nước nhằm điều hòa nguồn nước giữa các mùa.

Cuối cùng, Phó Chủ tịch Hội đồng đề nghị các địa phương trong vùng khẩn trương lập danh mục các hồ, ao, nguồn nước cần bảo vệ; lập danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ; nghiêm cấm lấp sông và hạn chế tối đa việc lấn sông, làm giảm không gian thoát lũ.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ môi trường thích ứng biển đổi khí hậu và nước biển dâng cần được đẩy mạnh và huy động toàn thể nhân dân tham gia liên tục, thường xuyên.

3 tiểu vùng phát triển của vùng Đông Nam bộ

Trong định hướng không gian phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, vùng Đông Nam bộ có 3 tiểu vùng.

Tiểu vùng trung tâm gồm: TP.HCM, khu vực phía Nam tỉnh Bình Dương và Tây Nam tỉnh Đồng Nai. Đây là trung tâm phát triển của toàn vùng nổi bật với các thế mạnh về công nghiệp, GD-ĐT, y tế và đầu mối giao thương với quốc tế.

Tiểu vùng ven biển gồm: khu vực Cần Giờ của TP.HCM và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Khu vực phát triển mạnh các ngành kinh tế biển: Cảng biển, logistics; công nghiệp khai thác, chế biến dầu khí; du lịch biển, đảo; khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản.

Tiểu vùng phía Bắc gồm các tỉnh: Tây Ninh, Bình Phước; phía Bắc tỉnh Đồng Nai, phía Bắc tỉnh Bình Dương. Khu vực phát triển kinh tế cửa khẩu, kho vận, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch sinh thái. 

 Nhóm PV