




Những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa các chủ trương, chính sách hỗ trợ hợp tác xã theo hướng thúc đẩy liên kết sản xuất, ưu tiên vốn vay cho các hợp tác xã tham gia chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, gắn với nông nghiệp xanh, sạch.


Nhờ đó, kinh tế tập thể, hợp tác xã và doanh nghiệp đã có bước phát triển lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và hợp tác xã đã góp phần khơi thông những tiềm năng, phát triển thị trường ổn định, bền vững cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện nhiều mô hình liên kết hiệu quả cao.

Trong kết luận Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2025 vừa được Văn phòng Chính phủ có thông báo truyền đạt ngày 9/12, trên cơ sở phân tích rõ nguyên nhân của những tồn tại, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đã chỉ đạo phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã gắn với liên kết doanh nghiệp thời gian tới.
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh rằng “Liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, là một xu thế tất yếu, mang tính chiến lược đối với ngành nông nghiệp trong giai đoạn tới đây”, đồng thời, chỉ rõ: “Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã theo mô hình xanh, số, tuần hoàn và thúc đẩy liên kết với các thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp vừa là yêu cầu thực tiễn khách quan, vừa là giải pháp mang tính chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội với phương châm Nhà nước kiến tạo - Doanh nghiệp tiên phong - Hợp tác xã là hạt nhân - Nông dân, người lao động là chủ thể - Nhà khoa học tư vấn, đồng hành - Tổ chức tín dụng hỗ trợ - Xây dựng liên kết bền vững, hiệu quả”.


Với Bộ NN&MT, một nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm bộ này được yêu cầu tập trung thời gian tới là khẩn trương trình Chính phủ về Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của “Nghị định 98 ngày 5/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”.
Trong đó, cần tập trung vào việc đổi mới, đơn giản hóa và quy định rõ các tiêu chí, trình tự, thủ tục, thẩm quyền phê duyệt; tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương trong quy trình xác nhận, phê duyệt dự án, kế hoạch liên kết; quy định rõ cơ chế phân phối lợi ích hài hòa, hợp lý và cơ chế bảo vệ quyền lợi của các tác nhân trong chuỗi giá trị; bổ sung các quy định hỗ trợ hình thành và vận hành chuỗi giá trị xanh, chuỗi giá trị số, gắn với truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải, tín chỉ carbon, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế; cập nhật, bổ sung danh mục các nội dung ưu tiên để hỗ trợ phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn của từng vùng.

Bộ NN&MT cũng được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan để xây dựng chương trình tổng thể về đào tạo nông dân số, nông dân chuyên nghiệp, đội ngũ quản trị hợp tác xã hiện đại, góp phần hình thành lực lượng lao động nông nghiệp có tri thức, kỹ năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời,xây dựng cơ chế đào tạo nghề, phát triển đội ngũ xã viên, nông dân có chất lượng, năng lực chuyên môn cao về xây dựng và vận hành chuỗi liên kết về nông sản.

Chia sẻ quan điểm về liên kết chuỗi nông sản, tại hội thảo “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” vào cuối tháng 10/2025, đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&MT) nhấn mạnh: Trong bối cảnh nông nghiệp đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng, từ sản xuất sang chuỗi giá trị, từ tự phát sang minh bạch, từ truyền thông sang số hóa, thì việc tổ chức lại liên kết và xây dựng hệ sinh thái không còn là xu hướng mà là yêu cầu sống còn.


“Liên kết chuỗi giá trị và hệ sinh thái số là 2 trụ cột không thể tách rời nếu muốn nông nghiệp hiện đại, bền vững, minh bạch và có khả năng cạnh tranh trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hội nhập và chuyển đổi số toàn cầu”, đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhấn mạnh.
Minh chứng cho nhận định của mình, đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn điểm ra một số mô hình tiêu biểu của một số nước như nền tảng nông nghiệp quốc gia gắn với từng hợp tác xã cấp thôn xã (Trung Quốc); TraceThai - Hệ thống truy xuất tập trung từ ruộng đến thị trường áp dụng bắt buộc khi xuất khẩu (Thái Lan); mô hình nông trại carbon, định danh nông dân và ứng dụng hệ thống MRV (Đo lường, báo cáo, thẩm định/ xác minh) tự động (Úc – EU).

Từ kinh nghiệm quốc tế, bài học được khuyến nghị áp dụng tại Việt Nam là nhà nước dẫn dắt số hóa từ cấp xã, tích hợp dữ liệu từ sản xuất – tiêu thụ - tài chính; truy xuất là yêu cầu bắt buộc, mọi hợp tác xã, doanh nghiệp đều phải kết nối hệ thống quốc gia để được cấp mã số vùng trồng; đồng thời, cần gắn sản xuất nông nghiệp với định lượng tín chỉ carbon, sử dụng dữ liệu số để phân bổ hỗ trợ chính sách theo vùng, hợp tác xã.

Ở góc độ của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp với doanh nghiệp, tổ chức khoa học - công nghệ để thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng chuyển đổi số vào thực tiễn sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị toàn cầu.
