Trao đổi với VietNamNet, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Bùi Quốc Dũng cho biết, một trong những dấu ấn của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) trong 30 năm qua là việc ứng dụng CNTT vào hoạt động kiểm toán. Đây cũng là nhân tố quan trọng, đóng vai trò mũi nhọn trong lộ trình chuyển đổi số của KTNN.

Hiện nay, việc phát triển kinh tế số, công nghệ số, chuyển đổi số đã và đang tác động, ảnh hưởng sâu rộng đến công tác quản lý, điều hành bộ máy nhà nước, trong đó có KTNN. Vậy trong thời gian qua, KTNN đã ứng dụng CNTT vào hoạt động kiểm toán cũng như thực hiện chuyển đổi số KTNN như thế nào, thưa ông?

Chúng tôi xác định ứng dụng CNTT là nhân tố quan trọng, đóng vai trò mũi nhọn trong lộ trình chuyển đổi số của KTNN. Đối với việc kết nối, chia sẻ dữ liệu với các đơn vị được kiểm toán và các cơ quan chức năng phục vụ công tác kiểm toán, KTNN đã xây dựng hệ thống nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu và đến nay, đã thực hiện được với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, từ đó tạo tiền đề để triển khai kết nối, chia sẻ dữ liệu trên diện rộng.

Từ năm 2022, KTNN đã triển khai Cổng trao đổi thông tin để trao đổi dữ liệu điện tử đa chiều giữa KTNN và đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị được kiểm toán cung cấp dữ liệu điện tử; cũng như trong trao đổi các thông tin liên quan đến hoạt động, kết quả kiểm toán.

Đến nay, KTNN đã cấp hơn 7.000 tài khoản cho gần 3.000 đơn vị được kiểm toán; các đơn vị đã cung cấp hơn 10.000 báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán và dự toán kinh phí thông qua Cổng trao đổi thông tin.

Ngoài ra, để thiết lập một hệ thống tập trung, KTNN đã triển khai tích hợp, kết nối liên thông dữ liệu giữa các phần mềm nội bộ thông qua trục tích hợp để đảm bảo tính thống nhất, tập trung giữa các phần mềm trong toàn ngành.

Chúng tôi đã xây dựng trên 30 phần mềm phục vụ công tác quản lý điều hành nội bộ và hỗ trợ hoạt động kiểm toán, bao gồm: Cổng thông tin điện tử của KTNN và các cổng thành phần; 14 phần mềm hỗ trợ hoạt động kiểm toán; 13 phần mềm phục vụ quản lý điều hành và phần mềm hỗ trợ quản trị, vận hành CNTT.

Với quyết tâm chuyển đổi số trong toàn ngành, từ năm 2017 đến nay, KTNN đã số hóa hồ sơ hơn 1.300 cuộc kiểm toán với khoảng 13 triệu trang tài liệu các loại, tạo lập cơ sở dữ liệu về hồ sơ kiểm toán điện tử phục vụ quản lý, lưu trữ và khai thác hồ sơ kiểm toán, từng bước hình thành dữ liệu lớn của KTNN.

Nhằm tăng cường công khai kết quả kiểm toán và triển khai Nghị quyết số 74/2022 của Quốc hội về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, từ tháng 5/2023, KTNN đã triển khai thí điểm Hệ thống công khai báo cáo kiểm toán để cung cấp các báo cáo kiểm toán đến Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội theo hình thức điện tử.

Hiện nay đã cung cấp hơn 500 báo cáo kiểm toán năm 2022, 2023 trên hệ thống và cấp gần 130 tài khoản cho Quốc hội để phục vụ khai thác thông tin.

Đáng chú ý là năm 2022, KTNN đã thực hiện thành công thí điểm cuộc kiểm toán từ xa đầu tiên tại Tập đoàn VNPT, qua đây đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo tiền đề cho KTNN mở rộng triển khai kiểm toán từ xa trong tương lai.

Bên cạnh việc xây dựng các cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng, KTNN đã xác định rõ hạ tầng CNTT cần được xây dựng phù hợp với thực tiễn triển khai các phần mềm ứng dụng và khai thác dịch vụ mạng phục vụ hoạt động của KTNN trong từng thời kỳ.

Từ những ngày đầu hạ tầng CNTT chỉ phục vụ việc truy cập Internet, thư điện tử, đến nay KTNN đã xây dựng hạ tầng kỹ thuật CNTT theo mô hình tập trung, hiện đại, đồng bộ với 2 Trung tâm dữ liệu và hệ thống mạng nội bộ kết nối trong toàn ngành.

Việc ứng dụng CNTT, thực hiện chuyển đổi số của KTNN đã mang lại những hiệu quả như thế nào, thưa ông?

Việc ứng dụng CNTT đã giúp KTNN nâng cao hiệu quả trong công tác kiểm soát, quản lý hoạt động kiểm toán.

Trong đó phải kể đến việc giúp các cấp lãnh đạo kịp thời theo dõi kế hoạch, tiến độ triển khai kiểm toán đến từng cuộc kiểm toán; giám sát hoạt động kiểm toán, quá trình thực hiện đến từng kiểm toán viên thông qua hệ thống nhật ký kiểm toán điện tử; theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của các đơn vị được kiểm toán trên cơ sở số liệu thực hiện kiến nghị kiểm toán được cập nhật kịp thời trên phần mềm, xác định cụ thể tỷ lệ thực hiện kiến nghị hằng năm của các đơn vị được kiểm toán.

Ngoài ra, việc ứng dụng CNTT trong công tác lập kế hoạch kiểm toán năm giúp cho KTNN rà soát, giảm thiểu việc triển khai nhiều cuộc kiểm toán trên một địa bàn, đơn vị được kiểm toán.

Các thông tin, số liệu được cung cấp trên phần mềm, đã hỗ trợ cho lãnh đạo KTNN, lãnh đạo đơn vị chủ trì kiểm toán và các đơn vị kiểm soát chất lượng kiểm toán có thông tin kịp thời để chỉ đạo, điều hành cũng như giám sát hoạt động kiểm toán kịp thời.

Ngoài hoạt động kiểm toán, các công tác xử lý văn bản, quản lý cán bộ, đào tạo, đánh giá kiến thức định kỳ của kiểm toán, công tác quản lý tài chính, thanh tra, khiếu nại, tố cáo, thi đua khen thưởng cũng được ứng dụng CNTT, giúp nâng cao hiệu lực hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành của KTNN.

KTNN cũng đã triển khai Hệ thống điều hành tập trung, các báo cáo nhanh, ứng dụng hỗ trợ điều hành trên thiết bị di động, giúp cán bộ công chức xử lý, tra cứu văn bản, các thông tin về hoạt động kiểm toán kịp thời, mọi nơi mọi lúc, giúp nâng cao hiệu lực hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành của KTNN và giảm chi phí hành chính.

Một trong những vấn đề nhiều người lo ngại là tính bảo mật của thông tin khi các dữ liệu được số hóa. Vậy KTNN làm gì để đảm bảo an toàn thông tin của ngành cũng như của các cơ quan đơn vị có liên quan?

Trước bối cảnh tình hình an ninh mạng diễn biến ngày càng phức tạp, công tác đảm bảo an toàn thông tin luôn được KTNN quan tâm. Cụ thể từ năm 2017, KTNN đã tăng cường đầu tư, thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn thông tin trong toàn ngành.

KTNN đã triển khai hệ thống tường lửa, các hệ thống rà quét, giám sát và phòng chống tấn công. Theo đó, từ năm 2022, định kỳ hằng năm, KTNN đã thực hiện giám sát, kiểm tra, đánh giá, rà quét, vá lỗ hổng bảo mật, thực hiện đảm bảo an toàn thông tin theo mô hình 4 lớp; phê duyệt và thực hiện đảm bảo an toàn thông tin theo quy định của Nhà nước.

Thông qua việc thực hiện kiểm tra, rà quét, hằng năm KTNN đã kịp thời cập nhật và thực hiện vá hàng trăm lỗ hổng bảo mật.

Ngoài ra, KTNN còn thực hiện các giải pháp mã hóa dữ liệu, thiết lập các chính sách bảo mật đối với người dùng cuối như: Thiết lập chế độ mật khẩu, xác thực 2 lớp, xây dựng các quy định về tài khoản định danh,... Từ đó giúp nâng cao mức độ đảm bảo an toàn thông tin cho hệ thống CNTT của KTNN.

Để thực hiện thành công chuyển đổi số, hướng đến “kiểm toán số” và đạt mục tiêu trong chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030, chiến lược phát triển và kiến trúc tổng thể CNTT của KTNN giai đoạn 2019 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, KTNN xác định các nhiệm vụ trọng tâm là gì, thưa ông?

Cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung, CNTT với dữ liệu lớn, công nghệ phân tích dữ liệu dựa trên trí tuệ nhân tạo nói riêng đang dần biến đổi các hoạt động kinh tế, xã hội toàn cầu, tác động đến các quốc gia, các ngành nghề, lĩnh vực.

Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 xác định công nghệ là một trong ba trụ cột nhằm đưa KTNN tham gia tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế số và thích ứng linh hoạt với quá trình chuyển đổi số; tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi từ phương pháp kiểm toán truyền thống sang phương pháp kiểm toán hiện đại dựa trên dữ liệu số, môi trường kiểm toán số bảo mật và tích hợp cao; ứng dụng CNTT để minh bạch, công khai hoạt động kiểm toán và kết quả kiểm toán.

Đây vừa là cơ hội và cũng là thách thức lớn đối với KTNN, đòi hỏi KTNN phải có lộ trình chuyển đổi số phù hợp.

Để thực hiện thành công chuyển đổi số, hướng đến “kiểm toán số”, chúng tôi xác định rõ 6 nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

Một là, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nền tảng kết nối và chia sẻ dữ liệu đảm bảo tính sẵn sàng cao của hệ thống; từng bước nâng cấp, chuyển đổi sang nền tảng điện toán đám mây nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu hạ tầng, tạo nền tảng để áp dụng các công nghệ số vào hoạt động của KTNN.

Hai là, xây dựng hạ tầng dữ liệu và cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ trao đổi, tích hợp dữ liệu; kết nối, chia sẻ dữ liệu điện tử với các đơn vị được kiểm toán. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý đối tượng kiểm toán, các cơ sở dữ liệu tập trung từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau phục vụ cho việc ứng dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu lớn hỗ trợ hoạt động kiểm toán. 

Cùng với đó, xây dựng các cơ chế, chính sách đảm bảo môi trường pháp lý cho việc thu thập, chuẩn hóa, cập nhật dữ liệu định kỳ, kết nối, chia sẻ, truy cập, khai thác dữ liệu điện tử trên các cơ sở dữ liệu quốc gia và hệ thống thông tin quan trọng của của các bộ, ngành, địa phương.

Ba là, tập trung nghiên cứu phát triển các phần mềm ứng dụng cung cấp công cụ báo cáo thống kê, phân tích và dự báo phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và kiểm toán dựa trên dữ liệu lớn; hỗ trợ phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu trong xây dựng kế hoạch và thực hiện kiểm toán.

Với định hướng nhiệm vụ đó thì cần phải xây dựng Cục Công nghệ thông tin thực sự là “trung tâm phân tích, xử lý dữ liệu”, là một cấu phần không thể tách rời của quá trình và quy trình của hoạt động KTNN. 

Theo đó, trên cơ sở hệ thống cơ sở dữ liệu đã thu thập, Cục Công nghệ thông tin sẽ đóng vai trò như bộ phận “dò mìn” trong hoạt động kiểm toán, tiến hành phân tích, đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu, từ đó lựa chọn bước đầu về đầu mối, đơn vị được kiểm toán, vấn đề được kiểm toán làm cơ sở cho các KTNN chuyên ngành, khu vực thu thập bổ sung các thông tin cần thiết để xây dựng kế hoạch kiểm toán.

Bốn là, triển khai các giải pháp đảm bảo an ninh, an toàn thông tin với trọng tâm là bảo vệ dữ liệu, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về an toàn thông tin, an ninh mạng, phù hợp với đặc thù của KTNN và chiến lược phát triển CNTT của KTNN.

Năm là, Cục Công nghệ thông tin cần tiếp tục phát huy vai trò đơn vị chuyên trách về CNTT của KTNN, phối hợp với các đơn vị trong ngành tham mưu xây dựng các chương trình, kế hoạch CNTT; chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, các biểu mẫu, phương pháp kiểm toán, xây dựng các tiêu chí kiểm toán đối với từng lĩnh vực nhằm đáp ứng yêu cầu ứng dụng CNTT vào hoạt động của ngành; xây dựng các quy chế quản lý, khai thác và sử dụng các ứng dụng CNTT của KTNN đảm bảo hiệu quả, an toàn và ổn định.

Sáu là, phát triển, đào tạo nguồn nhân lực CNTT, trong đó phát triển đội ngũ chuyên trách CNTT có đủ năng lực chuyên môn để tham mưu phát triển, quản lý và tổ chức vận hành hệ thống CNTT của KTNN. Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực, trong đó chú trọng đào tạo chuyên sâu và cập nhật công nghệ mới, đào tạo “kỹ sư phân tích dữ liệu”. 

Tập trung đào tạo đội ngũ kiểm toán viên, công chức của KTNN kỹ năng làm chủ công nghệ, năng lực xử lý, phân tích dữ liệu thông qua việc áp dụng các phần mềm, công nghệ số trong tác nghiệp kiểm toán; kỹ năng đảm bảo an toàn bảo mật thông tin trên môi trường mạng khi thực hiện kiểm toán và trong quá trình vận hành, khai thác hạ tầng, ứng dụng trong công việc hằng ngày.

Báo VietNamNet trân trọng cảm ơn ông!

Thiết kế: Trần Hằng