"Biển Đông chứa tiềm năng lớn về dầu khí và nhiều loại kim loại quý hiếm. Đây cũng được đánh giá là một trong năm khu vực có trữ lượng băng cháy cao" - GS. TS Trần Nghi, khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội cho biết.
TIN BÀI KHÁC

Việt Nam chưa chắc Biển Đông có bao nhiêu dầu

Bộ Năng lượng Mỹ đã đánh giá, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Trong khi, phía Trung Quốc tin rằng, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng.
Chưa đánh giá được hết tiềm năng khoáng sản ở Biển Đông, Việt Nam.

Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam đến 2020 do Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện, dự thảo tháng 11/2004 có nói: “Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất.

Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối”.

Tuy nhiên, GS.TS Trần Nghi băn khoăn: “Cho tới thời điểm này (2011), chúng ta chưa đánh giá hết được tiềm năng trữ lượng dầu khí ở Biển Đông. Với bể Cửu Long, hiện đang khai thác, cũng chưa ai dám nói đã đánh giá hết bể này. Chưa kể tới các bể trầm tích khác như bể Phú Khánh, bể Trường Sa, bể Tư Chính – Vũng Mây, bể Mã Lay - Thổ Chu, bể Hoàng Sa dự báo có tiềm năng như bể Trường Sa….”.
Đang thăm dò băng cháy, chưa đặt kế hoạch tìm kim loại quý


Báo Đà Nẵng ngày 6/6/2011 dẫn thông tin, các chuyên gia Nga đánh giá, khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên băng cháy (methane hydrate), loại năng lượng sạch trong tương lai có thể còn quý hơn dầu mỏ.

Công trình “Nghiên cứu câu trúc địa chất vùng biển nước sâu (trên 200m) Nam Vệt Nam làm cơ sở khoa học để tìm kiếm tài nguyên khoáng sản liên quan” năm 2006 cũng dự đoán, vùng được đánh giá triển vọng nhất bao gồm các khu vực địa lũy Tri Tôn – Tây quần đảo Hoàng Sa, Bắc và Đông bể Nam Côn Sơn và tây bắc vùng Tư Chính. Vùng được đánh giá triển vọng tương đối là phần đông bể Phú Khánh, Đông quần đảo Hoàng Sa và nhóm bể Trường Sa, phần Tây Nam và Nam bể Tư Chính – Vũng Mây.

Tại Việt Nam, tháng 6/2010, Thủ tướng đã phê duyệt “Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”. Mục tiêu của chương trình là nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam để xác lập các luận cứ, định hướng cho công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng và lựa chọn công nghệ khai thác.

Về các loại khoáng sản kim loại quý khác, GS.TS Trần Nghi cho biết, vùng Biển Đông Việt Nam có đồng, chì, kẽm, mangan, vàng…, phân bố ở đáy biển hoặc nằm trong lòng đất dưới đáy biển. Hiện Việt Nam chưa đặt vấn đề thăm dò, tìm kiếm một cách chi tiết.

GS.TS Lê Đức Tố, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và công nghệ biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội” cũng xác nhận, đã thu được những mẫu kim loại quý như vàng, mangan từ Biển Đông nhưng tại thời điểm này chưa đặt vấn đề thăm dò, khai thác.

Giải thích nguyên nhân Việt Nam chưa đánh giá được hết tiềm năng khoáng sản ở Biển Đông, hai GS trên đều thống nhất, trong điều kiện hiện nay, sự đầu tư cho việc này chưa nhiều. Công tác thăm dò, đánh giá, tìm kiếm khoáng sản cũng vấp phải những vấn đề phức tạp khác.

“Nhưng mục tiêu của chúng ta là sẽ phải khảo sát, đánh giá được tương đối chính xác tài nguyên của Biển Đông” – GS. TS Trần Nghi khẳng định.

(Theo Bee.net.vn)