Dưới đây là các dạng giảm xóc phổ biến, nằm trong mối quan tâm của người sử dụng xe bình thường:
1. Giảm xóc thông thường (Twin tube)
Giảm xóc thông thường có lỗ (van) cố định nên chỉ làm việc tốt trong một khoảng lực xung động gây ra. Có nhiều xe rất êm ở tốc độ 30km/h, nhưng lại bồng bềnh ở 100km/h. Lại có những loại rất xóc ở 30km/h trên đường xấu, nhưng lại êm ở 80km/h.
Giảm xóc thông thường (Twin tube) |
Do chính cấu tạo van phía trong giảm xóc gọi là van có thiết kế cố định, nó chỉ tốt ở trong 1 khoảng hoạt động mà thôi. Đa số xe ô tô giá rẻ ngày nay sử dụng giảm xóc dạng này, vì đơn giản là nó rẻ. Tất nhiên có những hãng sản xuất tốt hơn những hãng còn lại và đắt hơn, tuy nhiên so với các loại giảm xóc ở dưới thì nó không thể đắt bằng.
2. Giảm xóc điều khiển điện (Adaptive shock absorber)
Đặc điểm của loại giảm xóc này là lỗ (van) có thể thay đổi kích thước theo sự điều khiển của điện tử.
Ví dụ đi chậm giảm xóc cần mềm, lúc này lỗ to ra và dầu đi qua dễ dàng hơn, tạo ra chiếc xe êm ái.
Khi tăng tốc hoặc cua gắt, lỗ sẽ nhỏ lại và tạo ra chiếc giảm xóc cứng hơn, có khả năng chống lại xung lực từ mặt đường cao hơn, cũng như giảm độ nghiêng của xe khi vào cua. Qua đó tạo ra chiếc xe bám đường hơn.
Giảm xóc điều khiển điện (Adaptive shock absorber) |
Chính xác mà nói, thì lỗ (van) trên giảm xóc ngày ngay được chia ra làm nhiều van nhỏ. Ở tốc độ thấp, chế độ giảm xóc mềm, dung dịch dầu sẽ chảy qua cùng lúc 3 van. Còn ở tốc độ cao, chế độ giảm xóc cứng, 1 hoặc 2 van đóng lại và giảm xóc trở nên cứng hơn.
Ví dụ điển hình của loại giảm xóc này ở Việt Nam là Mercedes C300. Hãy hình dung xe có nhiều chế độ lái: Comfort (mở 3 van); Sport (mở 2 van); Sport + (mở 1 van). Lúc này có 3 cái giảm xóc cứng mềm khác nhau.
Các giảm xóc này được điều khiển điện từ tùy theo chế độ vận hành, tốc độ, điều kiện đường xá. Trên xe có nhiều cảm biến thu thập thông tin về tình trạng vận hành cũng như mặt đường, qua đó thay đổi cách mà giảm xóc làm việc, tạo ra chiếc xe êm ái và bám đường, có khả năng cua nhanh hơn, an toàn hơn, và tất nhiên là đắt tiền hơn.
3. Agility control
Công nghệ này được Mercedes trang bị trên GLC mới. Vì nhiều người muốn biết nó là cái gì nên tác giả xin đề cập luôn trong viết bài này.
Agility control trên xe Mercedes-Benz |
Agility control là 1 tên gọi hay cho 1 công nghệ cực hay. Công nghệ này dựa trên sự linh hoạt của giảm xóc. Ở giảm xóc dạng này, để dễ hình dung, chỉ có 2 van. 1 van mở liên tục như thụt điều khiển điện, còn 1 van có khả năng thu hẹp đến mức đóng kín lại. Điều này tạo ra 1 giảm xóc biến thiên hoàn toàn tự động.
Không điều khiển điện, van phía trong giảm xóc thu nhỏ kích thước hoặc đóng hẳn chỉ bằng 1 phép đo xung lực.
Ở tốc độ chậm, van này mở và chiếc xe êm ái. Nhưng ở tốc độ cao, khi xung lực tại bánh xe lên khung xe tăng lên, van này thay đổi kích thước và tạo ra chiếc xe cứng hơn, bám đường hơn, an toàn hơn.
Ngay khi đánh lái gấp, xung động tại giảm xóc tăng lên và chiếc van lập tức đóng lại, giảm nghiêng xe. Ngay khi đạp phanh gấp, nó cũng sẽ cứng ngắc để giảm xu hướng thấp đầu cao đuôi, hấp thụ động năng từ chuyển động quay của chiếc xe trong lúc phanh, và có thể giảm quãng đường phanh gấp.
Công nghệ giảm xóc trên xe Mercedes-Benz |
Hoạt động thay đổi chế độ theo điều kiện vận hành trực tiếp, hoàn toàn tự động, công nghệ giảm xóc này có thể nói khá thành công vì có tỷ lệ chi phí sản xuất/ hiệu quả mang lại tốt hơn loại điều khiển điện, cũng như không cần phần điều khiển rắc rối. Điều này dẫn đến khách hàng sẽ tiết kiệm được chi phí thay thế, với hiệu quả không quá nhiều khác biệt.
Được ZF chế tạo, giảm xóc Agility Control có thể được lắp trên những hãng xe khác, có thể không. Google không nói đến các loại xe khác có trang bị giảm xóc loại này. Phải chăng Mercedes độc quyền trong công nghệ, hay đơn giản là các hãng xe khác chẳng biết họ đang dùng giảm xóc gì? Câu hỏi này dành cho người đọc tự nghiên cứu!
4. Giảm xóc điều khiển bằng nam châm điện (Electromagnetic absorber)
Tương tự giảm xóc điều khiển điện (adaptive ), nhưng với nguyên lý thay đổi độ đậm đặc của dung dịch dầu phía trong giảm xóc. Hãng sản xuất xe Anh quốc Land Rover đã tiếp cận vấn đề theo 1 cách hơi khác: Thay vì thay đổi kích thước của van phía trong giảm xóc, họ quyết định chế tạo ra 1 dung dịch có thể thay đổi độ đậm đặc, và qua đó mang đến kết quả tương tự. Audi cũng sử dụng loại này cho 1 số model của họ. Dung dịch dầu được pha với các phân tử nano sắt, phản ứng với nam châm điện, và thay đổi độ đặc, thông qua đó tạo nên cứng/mềm.
Giảm xóc điều khiển bằng nam châm điện (Electromagnetic absorber) |
Để so sánh với giảm xóc điện điều khiển van, cần có những bài test xe thật sự, với quan điểm của tôi, thì có vẻ loại giảm xóc này có biên độ làm việc theo hướng mềm (êm ái) hơn so với loại điều khiển van. Bằng chứng là Range Rover có vẻ êm hơn các mẫu xe Đức lắp loại kia.
Tuy nhiên, công nghệ này đã được Mercedes sử dụng vào việc chế tạo các điểm định vị giữa thân xe (body) và gầm xe (chassic) trên mẫu AMG GTR. Với kết quả là tạo ra chiếc xe êm ái trong điều kiện sử dụng hàng ngày khi điểm định vị mềm mại có tính chất giảm rung động từ động cơ cũng như hệ thống treo, truyền động đến cabin. Và trở nên cứng ngắc khi chiếc xe cần sự gắn kết giữa body và chassic, đảm bảo người lái có cảm nhận tốt nhất về chiếc xe trong điều kiện trường đua.
Dưới 1 góc nhìn nào đó thì AMG GTR có vẻ được chế tạo như xe SUV chassic rời. Tuy nhiên, công nghệ này đã giúp model trên trở thành chiếc xe thể thao chạy phố êm ái khi cần.
Theo Cartimes