Xung quanh việc điều tra, truy tố, xét xử 2 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản ở quận Thủ Đức (TP.HCM) có nhiều dư luận trái chiều, ngày 24/7, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo quan trọng.
Theo đó, đại diện TAND TP.HCM đã báo cáo về nội dung vụ án và quá trình giải quyết vụ án Ôn Thành Tân, sinh ngày 10-9-1998 (khi phạm tội 17 tuổi 1 tháng 8 ngày) và Nguyễn Hoàng Tuấn, sinh ngày 15-8-1998 (khi phạm tội 17 tuổi 1 tháng 27 ngày), bị VKSND quận Thủ Đức truy tố về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 điều 136 bộ luật Hình sự năm 1999. TAND quận Thủ Đức kết án về tội “Cướp giật tài sản” và ban hành mức án tại Bản án hình sự sơ thẩm số 325/2016/HSST ngày 20-7-2016.
Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình. Ảnh: Hoàng Long
|
Trong vụ án này, các bị cáo Tân và Tuấn có hành vi cướp giật tài sản. Tuy nhiên, khi phạm tội các bị cáo đều là người chưa thành niên; tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 45.000 đồng là không lớn và đã được thu hồi, trả lại cho người bị hại; sau khi phạm tội, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; về nhân thân, các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Sau khi nghe báo cáo chi tiết nội dung vụ án và quá trình xét xử, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình chỉ rõ, theo quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự (nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội) phải đặt ra 5 vấn đề:
Một là: Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích trong xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Hai là: Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Ba là: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Bốn là: Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
Năm là: Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, việc Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn là không cần thiết. Khi thụ lý vụ án, TAND quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh đã thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là đúng quy định của Điều 69 Bộ luật Hình sự, Điều 88 và Điều 303 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong vụ án này, bị cáo Tân là người rủ bị cáo Tuấn đi cướp giật tài sản và là người điều khiển xe chở Tuấn đến nơi thực hiện tội phạm, sau đó chở Tuấn tẩu thoát. Tuy nhiên, TAND quận Thủ Đức lại nhận định bị cáo Tuấn có nhân thân không tốt vì có hành vi trộm cắp tài sản và đang bị VKSND huyện Củ Chi truy tố tại Cáo trạng số 117/Ctr/VKS-HS ngày 05-5-2016, nên đã tuyên hình phạt cao hơn bị cáo Tân là đánh giá không đúng vai trò của các bị cáo trong vụ án.
“Ở thời điểm này, bị cáo Tuấn chưa bị xét xử bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi trộm cắp tài sản, thì không bị coi là tình tiết tăng nặng là tái phạm; đồng thời, về nhân thân của bị cáo cũng chưa bị xử phạt hành chính. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Tân 08 tháng 20 ngày tù và bị cáo Tuấn 10 tháng tù quá nghiêm khắc…” - Chánh án Nguyễn Hòa Bình thẳng thắn kết luận.
Để bảo đảm việc giải quyết vụ án trên đúng quy định của pháp luật đồng thời rút kinh nghiệm vụ án này, Chánh án TANDTC yêu cầu:
Giao TAND TP.HCM khẩn trương kiểm tra để xác định: Nếu có kháng cáo của các bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo hoặc có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKSND TP đối với bản án sơ thẩm, thì TAND TP thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Khi xét xử phúc thẩm vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần nghiên cứu kỹ quy định của bộ luật Hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội để quyết định áp dụng nguyên tắc, biện pháp xử lý đối với các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn, bảo đảm đúng quy định của pháp luật và phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.
Trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giao Chánh án TAND cấp cao tại TP.HCM rút hồ sơ vụ án để xem xét việc kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm và đề nghị ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TP xét xử giám đốc thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với TAND các cấp, khi xét xử các vụ án hình sự, phải chấp hành nghiêm túc các quy định của bộ luật Tố tụng hình sự về việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với các bị cáo, đặc biệt là đối với bị cáo là người chưa thành niên. Các Tòa án phải nâng cao tinh thần trách nhiệm và tính độc lập trong xét xử để ra các bản án bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không được ra bản án, quyết định có nội dung chấp nhận sai sót nghiêm trọng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố vụ án hình sự.
Thẩm phán Huỳnh Ngọc Ánh, Phó Chánh án TAND Tp.HCM: "Xét xử hai thanh niên cướp bánh mỳ ở TP. HCM đang được xem xét lại" Phóng viên: Sau phiên tòa sơ thẩm của TAND quận Thủ Đức xét xử bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn về tội “Cướp giật tài sản” thì dư luận có nhiều quan điểm không đồng tình về mức án tuyên cho hai bị cáo này, TAND thành phố có nắm bắt được thông tin này không, thưa ông?
Thẩm phán Huỳnh Ngọc Ánh: Vừa qua TAND quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh có xử vụ án Nguyễn Hoàng Tuấn và Ôn Thành Tân về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 136, BLHS. Thông tin báo chí cũng như một số chuyên gia pháp lý và dư luận quần chúng cho rằng việc TAND quận Thủ Đức tuyên hình phạt bị cáo Tân 8 tháng 20 ngày, bằng với thời gian tạm giam; tuyên bị cáo Tuấn là 10 tháng, xử như thế là quá nặng, quá nghiêm khắc. Nhưng cũng có dư luận cho rằng xử như vậy là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. TAND TP. Hồ Chí Minh cũng đang xem xét lại vì sao lại có dư luận như thế.
Vậy quan điểm của ông về vụ án này như thế nào? Qua nắm bắt nội dung diễn biến vụ án và quá trình xét xử thì thấy rằng: tại phiên tòa, các bị cáo đều nhận tội và cũng thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Hồ sơ vụ án thể hiện hai bị cáo này đã đi chơi game trong tiệm internet từ 22 giờ đêm hôm trước cho đến 10 giờ sáng hôm sau thì về. Hai bị cáo rủ nhau vào tiệm tạp hóa để mua bánh mỳ, nhưng không có tiền nên đã thực hiện ý đồ cướp giật. Nếu căn cứ vào trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là mấy ổ bánh mỳ, tương đương với 45.000 đồng, thì thấy rằng hình phạt là tương đối nghiêm khắc. Nhưng xâu chuỗi lại toàn bộ vụ án thì thấy: đầu tiên là Viện kiểm sát trên cơ sở Kết luận điều tra đã truy tố các bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 2, Điều 136, BLHS. Viện kiểm sát truy tố ở khoản này với lý do là các bị cáo đã dùng phương tiện xe máy để đi cướp giật, đây là hành vi nguy hiểm nên tình tiết này VKS truy tố ở khoản 2, Điều 136, BLHS cũng có lý. Tuy nhiên, sau khi TAND quận Thủ Đức thụ lý hồ sơ và cân nhắc thì thấy việc bị cáo Tuấn đi vào trong tiệm tạp hóa giật tài sản xong rồi mới lên xe máy bỏ chạy, thì không nằm ở trong khoản quy định dùng phương tiện nguy hiểm để phạm tội, mà chỉ là phạm tội bình thường. Mặc dù khoản 1, Điều 136, BLHS không quy định phải định giá tài sản là bao nhiêu thì mới cấu thành tội phạm, và tội cướp giật thì không xác định trị giá tài sản cướp được. Xét thấy Viện KSND truy tố hai bị cáo phạm tội cướp giật là có căn cứ, tuy nhiên truy tố theo khoản 2, Điều 136, BLHS là chưa chính xác. Sau khi nghiên cứu, cân nhắc, HĐXX TAND quận Thủ Đức tuyên phạt bị cáo ở khoản 1, Điều 136, BLHS là phù hợp. Khi giải quyết vụ án, TAND quận Thủ Đức đã thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Tân có đúng các quy định của pháp luật, thưa ông? Thời gian bị cáo Tân bị cơ quan điều tra tạm giam, qua xem xét cân nhắc vào thời điểm đó, TAND quận Thủ Đức đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung thêm một số vấn đề để làm rõ các bị cáo có sử dụng phương tiện để cướp giật hay không, hay chỉ là dùng phương tiện chạy trốn. Đây là vấn đề quan trọng, đồng thời TAND quận Thủ Đức cũng đã chủ động thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng việc trả tự do cho bị cáo Ôn Thành Tân. Bởi vì xét thấy tính chất vụ việc này, mức độ như thế này mà đã giam giữ Tân 8 tháng 20 ngày là quá cao, cho nên TAND quận Thủ Đức đã chủ động thay đổi biện pháp ngăn chặn và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Ôn Thành Tân. Còn riêng đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn thì lúc đó đang có lệnh truy nã của Công an huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh trong một vụ án trộm cắp tài sản gồm 4 bị cáo và bị cáo Tuấn phạm tội rồi bỏ trốn khỏi Củ Chi. Khi có lệnh truy nã, bị cáo Tuấn lại trốn sang quận Thủ Đức phạm tội cướp giật tài sản. Chính vì vậy, TAND quận Thủ Đức đã không thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn. Tuy nhiên khi xét xử, HĐXX thấy thời gian tạm giam của bị cáo Tân là tương đối dài nên tuyên bản án đúng bằng thời gian tạm giam của bị cáo. Tuyên án như vậy có đúng hay không cần phải thận trọng xem xét để đảm bảo quyền lợi của bị cáo. Dư luận báo chí không đồng tình và đặt câu hỏi về trách nhiệm của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử vụ án này, quan điểm của Thẩm phán thế nào, thưa ông? Thông qua dư luận và báo chí cũng như xem xét hồ sơ, quan điểm của tôi thấy rằng dù bị cáo phạm tội theo khoản 1, Điều 136, BLHS mà tạm giam bị cáo như thế cũng là quá lâu. Nếu theo Bộ luật TTHS mới (năm 2015) thì những trường hợp này không cần tạm giam. Cho nên cái này cũng phải rút kinh nghiệm lại với các cơ quan tố tụng trong đó có Tòa án quận Thủ Đức. Đặc biệt khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chúng ta không nên xử theo tình trạng bị cáo bị giam giữ bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày thì HĐXX tuyên án đúng thời gian bị tạm giam như thế. Nói cách khác, các Thẩm phán khi xét xử phải thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Chánh án TANDTC đã quán triệt nhiều lần trong các buổi làm việc và giao ban công tác trong hệ thống TAND, đó là khi xét xử phải căn cứ vào hành vi phạm tội, căn cứ vào tính chất của tội phạm, căn cứ vào hậu quả xảy ra, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết khác để xét xử và áp dụng hình phạt cho tương xứng. Chứ còn việc trước đây bị cáo bị giam nhiều hay giam ít, giam đúng hay giam sai là một câu chuyện, không thể lấy đó làm căn cứ để HĐXX tuyên án. Làm như vậy không đúng tinh thần Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. Theo ông, TAND quận Thủ Đức nói riêng và TAND các địa phương phải rút kinh nghiệm như thế nào trong thực thi công vụ? Theo tôi, TAND quận Thủ Đức đã cố gắng làm tròn trách nhiệm và thực tế đã áp dụng đúng pháp luật trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, từ đó đã thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Ôn Thành Tân. Đặc biệt, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử đã cân nhắc và áp dụng khoản 1, Điều 136 BLHS là đúng; tuy nhiên Thẩm phán chưa căn cứ vào tính chất của tội phạm, hậu quả xảy ra… nên bản án tuyên cho bị cáo có phần nặng nề như dư luận đã phản ánh. Chính vì vậy chúng ta cần nghiêm túc rút kinh nghiệm. Khi xét xử, các Thẩm phán phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả và nhân thân của bị cáo để áp dụng biện pháp, hình phạt cho phù hợp, nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo pháp chế XHCN như Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã quy định. Xin cảm ơn ông! |