Kho báu Chàm được đề cập trong phạm vi bài viết này không phải là thứ “vàng Hời”, “vàng tùy táng” nằm ẩn dưới cổ mộ của những chức sắc, người Chàm (Chăm) giàu có từng một thời gây xôn xao dư luận, được tìm thấy bởi những kẻ “cướp cổ mộ”. Được nhắc đến ở đây là những kho báu của các triều vua Chàm với nhiều vật báu có một không hai.

Lần theo nhiều thư tịch, lời đồn và những truyền thuyết, PV đã lần trở về quá khứ, để từ đó phác lộ sự thật về những kho báu của vua Chàm  tại vùng đất cuối cùng của vương triều ngày trước ở 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Đó là những kho báu với nhiều bảo vật gấm vóc lụa là, đồ ngự dụng bằng bạc, vàng ròng, ngọc quý…

Bài 1: Lần theo dấu vết những huyền thoại có thật

Trong một thời gian dài, chuyện về những kho báu của vua Chàm được người đời thêu dệt thành những huyền thoại. Người ta đồn đãi và tin rằng những kho báu ấy từng một thời ẩn sâu trong lòng đất, được trấn giữ bởi những trinh nữ bị táng sống để bảo vệ bảo vật của vua. Người râm ran các kho tàng kho báu của vua Chàm vẫn còn ẩn dưới lòng đất, và cũng có lời đồn những kho bảo vật ấy đã biến mất theo dấu vết của thời gian, chiến tranh và những cuộc tàn phá, cướp bóc vào cái thuở lịch sử nhuốm đầy "mùi" binh đao, khói lửa.

Đến lễ Katê hằng năm, người Raglai lại cử đoàn xuống núi mang theo vật báu đến đền Pô Klong Garai cúng vua.

Nhưng theo tìm hiểu của chúng tôi, những kho báu của vua Chàm với muôn vàn ngọc ngà châu báu… phần lớn ẩn giữa rừng sâu. Điều kỳ lạ là những kho báu ấy được gìn giữ bởi tộc người Churu và Raglai. Vì sao kho báu vua Chàm lại không được người Chàm gìn giữ. Vì sao lại có hiện tượng lạ như vậy?

Bao đời qua, chuyện về các vị vua Chàm cùng những kho báu đồ sộ với những chiếc rương bằng gỗ quý trĩu nặng vô số vật dụng, đồ trang sức, triều phục, biểu tượng quyền lực (kiếm và ấn triện) bằng các chất liệu vàng, bạc, ngọc ngà… luôn kích thích sự hiếu kỳ của người đời cũng như thu hút sự quan tâm của xã hội. Người ta không thể không quan tâm, không thể không hiếu kỳ khi thi thoảng lại nở rộ thông tin có người tìm thấy nải chuối bằng vàng, con ngựa bằng vàng, pho tượng bằng vàng… tại ngôi cổ mộ, cánh đồng hay khu rẫy nào đó.

Ông Hồ Khải, hiện sống tại khu phố chuyên buôn đồ giả cổ Lê Công Kiều (quận 1, TP HCM) là người rất quan tâm đến thông tin về những kho báu Chàm. Hơn 50 năm sưu tầm, góp nhặt, trao đổi và mua bán, ông Khải đang nắm trong tay khối lượng cổ vật khổng lồ với hàng ngàn món. Giữa la liệt kiếm cổ, ấn triện của các vương triều (chủ yếu triều Tây Sơn và triều Nguyễn), tượng cổ, đồ sành sứ trăm năm, các bảng sắc phong, các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng… được ông Khải "cưng như trứng, hứng như hoa" những cổ vật liên quan đến các triều đại vua Chàm. Lý do theo thổ lộ của ông bởi đó là vương triều huyền bí, tài hoa trong việc chế tác những vật dụng sinh hoạt, trang sức tinh tế đến không tưởng!

Mỗi nhà sưu tập cổ vật có niềm đam mê riêng nên chuyện ông Khải không ngớt lời khen các món "cổ vật Chàm" mà ông đang sở hữu không có gì lạ. Sau khi khoe nhiều bức tượng cổ, hộp trang sức bằng bạc của những phụ nữ Chàm quyền quý, những cây kiếm lưỡi lượn sóng chuôi đồng thân thép xám lạnh huyền bí, ông Khải, tâm sự: "Điều đáng tiếc là tôi chỉ có được những món đồ dùng trong tùy táng, thờ cúng thần linh mà thôi. Kỳ thực tôi rất mong ước mình kiếm được những món đồ là vật báu của các triều vua Chàm để lại. Các vua Chàm để lại cho hậu thế rất nhiều kho báu, nhưng khổ nỗi vì chưa có duyên nên tôi chưa tuyển được món nào".

Phần lớn cổ vật Chàm mà ông Khải sưu tập được có nguồn gốc ở Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa và đặc biệt tại tỉnh Ninh Thuận, nơi mà theo ông "từng là giang sơn cuối cùng của các vua chúa Chiêm Thành". Hàng trăm lần đi đi về về tuyến TP HCM - Ninh Thuận và ngược lại để săn tìm "cổ vật Chiêm Thành" mà dân gian vẫn quen gọi "Chàm", đi nhiều, ăn dầm nằm dề nơi núi rừng để lần theo những nguồn thông tin về các kho báu Chàm cũng như những người tìm được cổ vật Chàm để hỏi mua, bán chác, trao đổi… nên nói ông Khải là "tự điển sống" về cổ vật Chàm, không quá lời.

Cũng nhờ đọc nhiều và ham đọc mà ông Khải có khẳng định hoàn toàn trái ngược với những gì thiên hạ đồn đoán về những kho báu Chàm: "Người ta đồn người Chàm lưu giữ kỹ lưỡng những báu vật trong kho báu truyền đời từ các vua chúa của họ, họ chỉ đưa ra cúng quẩy vào lễ hội lớn rồi lại cất giấu rất kỹ, không cho bất kỳ ai xem". Nói đến đây, ông Khải tặc lưỡi: "Những đồn đãi đó vừa đúng lại vừa sai. Đúng là chỉ khi tiến hành lễ Katê người ta mới được dịp chiêm ngưỡng những báu vật của vua chúa Chàm. Nhưng những báu vật này không phải do người Chàm lưu giữ mà là do người Raglai ở huyện miền núi Ninh Sơn, bảo quản. Khi có lễ hội thì họ mang xuống dâng cúng và kết thúc lễ thì lại mang báu vật về núi".

Chia sẻ của ông Khải gợi cho người viết bài này nhớ đến lần tham dự lễ hội Katê năm ngoái tại Ninh Thuận. Được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 Chăm lịch (khoảng cuối tháng 9 dương lịch), Katê là lễ hội thiêng liêng, là dịp để cộng đồng người Chăm tưởng nhớ các anh hùng dân tộc được họ tôn là thần vì đã ban giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. 

Lễ hội Katê lần đó, chúng tôi dự tại đền Pô Klong Garai (dân gian quen gọi Tháp Chàm, tháp thờ vua Pô Klong Garai, được người Chàm xem là vị anh quân, là vị vua có tài dẫn thủy nhập điền giúp ruộng vườn khô cạn trở nên tươi tốt, dân chúng no ấm) và được dịp chứng kiến các vị chức sắc trong cộng đồng Chăm bày những chiếc ly, chén màu vàng từ trong một chiếc giỏ tre trước tháp chính rồi khấn cầu kính cẩn. Khi ấy, cứ nghĩ đó đơn thuần là những món đồ phục vụ cho lễ nghi, nào ngờ qua trò chuyện với ông Khải, mới biết ấy là những báu vật trong kho báu mà các vua chúa Chàm để lại cho hậu thế!

Vấn đề ở chỗ khẳng định của ông Khải rằng "kho báu của các vua Chàm do người Raglai giữ" liệu có hoàn toàn chính xác? Để làm rõ điều này, có dịp đến Ninh Thuận, người viết không bỏ lỡ cơ hội tìm hỏi các vị chức sắc Chàm để rõ thực hư. Qua các cuộc trò chuyện mới biết điều ông Khải chia sẻ hoàn toàn chính xác. Theo tục lệ cổ truyền, đến dịp lễ Katê của người Chăm thì các làng Raglai (huyện Ninh Sơn, Ninh Phước) cử người rời núi cao mang theo các báu vật mà vua chúa Chàm ngày trước gửi gắm xuống các tháp để cùng dự lễ rồi mang trở về núi cất giữ. Báu vật mà họ mang theo gồm áo giáp, áo bằng vàng, mão bằng vàng, bảo kiếm, sắc phong của các triều vua Nguyễn cho vua Chàm, và các đồ ngự dụng của Vua Chàm...

Sau khi tiếp nhận những báu vật trăm năm, các chức sắc Chăm đưa vào đền tháp chính với những nghi thức trang trọng.

Những tư liệu nghiên cứu ghi rằng theo thời gian, sau chiến tranh (sau năm 1975), vì nhiều lý do mà các báu vật kể trên không còn nữa nhưng người Raglai vẫn theo lệ xưa mang những gì còn sót lại mà người Chàm xưa gửi gắm như ly chén, sắc phong, áo vải đã cũ mục… xuống các đền tháp đã quy định trao cho các chức sắc Chăm hành lễ ở đền Pô Inư Nưgăr, tháp Pô Rômé, tháp Pô Klong Garai. Ngoài những báu vật còn sót lại, người Raglai khi xuống núi cũng mang theo báu vật của chính mình, đó là những dàn mã la (nhạc cụ bằng đồng giống cồng chiêng Tây Nguyên nhưng không có núm) hàng trăm năm tuổi và tấu lên những âm thanh huyền bí để ngày hội Katê thêm phần long trọng.

Người Raglai hiện sinh sống tập trung tại 3 huyện của tỉnh Ninh Thuận gồm Bác Ái, Ninh Sơn và Ninh Phước. Đây là tộc người theo chế độ mẫu hệ, có nghĩa con gái cưới con trai. Người Raglai hiền lành, chân chất, yêu chuộng hòa bình và rất trọng chữ tín. Những chuyện lạ về phong tục Raglai, đặc biệt là tục con gái đi cưới chồng, chúng tôi sẽ đề cập trong một bài viết khác. Vấn đề đặt ra ở đây là tộc người này liên quan gì với người Chàm. Đâu là lý do họ giữ những kho báu Chàm mà nhiều tư liệu ghi rằng do người Chàm gửi. Tại sao người Chàm lại không tự giữ những báu vật là di vật của tổ tiên, sao lại có sự lạ như vậy?!

Tiếp  tục dò hỏi, lần tìm, người viết tình cờ biết được nhiều bí mật qua một số tư liệu xưa, đặc biệt qua bài viết về "Số phận những kho báu Chăm ở Lâm Đồng" của tác giả Đoàn Bích Ngọ, công tác tại Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng. Qua đó mới biết hơn 170 năm trước, các bảo vật Chàm vẫn do các thế hệ con cháu các vua Chàm giữ. Số phận lưu lạc của các bảo vật Chàm bắt đầu vào năm 1831, khi Lê Văn Khôi (con nuôi của Tổng trấn Lê Văn Duyệt) nổi loạn ở thành Phiên An (Gia Định), chống lại triều đình nhà Nguyễn, chiếm 3 tỉnh Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết.

Sau khi dẹp được Lê Văn Khôi, biết được số đông con cháu vua Chàm tích cực hợp tác với quân nổi loạn, Vua Minh Mạng đã thẳng tay đàn áp. Để tránh họa, một bộ phận người Chàm di cư sang Campuchia, số khác mang theo các bảo vật của tổ tiên lên núi sống với người Churu và Raglai. Mãi đến đời Vua Thiệu Trị, lệnh đàn áp mới được hủy bỏ. Dầu vậy con cháu của vua Chàm không mang di vật cha ông xuống núi mà gửi lại cho những bộ tộc đã chở che cho mình lúc hoạn nạn.

Quá trình tìm hiểu, chúng tôi được biết số báu vật mà con cháu của vua Chàm gửi cho người Churu (nay cư trú ở tỉnh Lâm Đồng) và người Raglai ngày trước rất nhiều với cả ngàn bảo vật, di vật cung đình. Nhưng do chiến tranh, loạn lạc và nạn săn lùng cổ vật mà người Churu hầu như chẳng còn lưu giữ được bao nhiêu bảo vật. Số phận của hàng trăm món bảo vật của vua chúa Chàm (kho đựng đồ bạc, y phục của vua và hoàng hậu, mâm thờ bằng bạc, vương miện bằng vàng…) được gửi cho người Churu khép lại vào giai đoạn năm 1968-1969 khi 3 ngôi đền gồm đền Sóp, đền Krayo và đền Sópmadronhay mà người Churu xây dựng để thờ các vua chúa Chàm và lưu giữ kho báu đã bị máy bay Mỹ ném sập rồi đến lượt các toán quân Mỹ ùa vào hôi của.

Sau gần 200 năm, những kho báu mà người Chàm trao gửi cho người Raglai nay chỉ là con số khiêm tốn và được người Raglai lưu giữ qua nhiều thế hệ. Và cũng từ đây, hình thành mỹ tục cứ đến lễ hội Katê hằng năm, trước khi diễn ra ngày lễ chính (ngày 1 tháng 7 lịch Chăm), các làng Raglai có giữ báu vật của vua Chàm gửi gắm ngày trước lại cử người rời núi cao đến trao báu vật cho các chức sắc Chăm hành lễ, sau đó lại đón về bảo giữ nghiêm ngặt.

Được biết khi di chuyển xuống đồng bằng để hành lễ với người Chăm, đoàn người Raglai tập kết ở 3 địa điểm có tháp cổ linh thiêng được quy định sẵn gồm tháp Pô Rômê, đền Pô Inư Nưgăr và tháp Pô Klong Garai. Cũng cần nói rõ rằng trước khi mang báu vật xuống núi, bao giờ người Raglai cũng phải làm lễ. Lễ vật cúng thần là 1 con dê và hàng năm phải chúng thêm 5 mâm cơm và 2 con gà.

Còn một bí mật nhỏ khác quanh chuyện các kho báu Chàm được người Raglai lưu giữ mà người viết ghi nhận là như người Churu, sở dĩ người Raglai vẫn cất công, bền bỉ lưu giữ các báu vật mà vua chúa Chàm ngày trước gửi lại, và khi tình hình đã ổn, người Chàm cũng không có ý định thu hồi vì giữa người Raglai và người Chàm có mối quan hệ mật thiết, gần gũi như anh với em. Trong Non nước Ninh Thuận, tác giả Nguyễn Đình Tư ghi rằng "theo các nhà nhân chủng học, người Raglai được hình thành bởi giống Chàm và giống Rhadé… Do đó phong tục tập quán của người Raglai chịu ảnh hưởng của sắc dân Chàm".  Nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học cho thấy khi giao tiếp, người Raglai Nam (cư trú ở huyện Ninh Sơn) và người Chăm có thể hiểu nhau đến 90%...

Chính vì sự gần gũi như chân với tay ấy mà khi gặp nạn, vua chúa Chàm đã tin cậy lên núi cao sống với "người anh em” của mình. Và với bản chất thật thà lại được sự gửi gắm kỳ vọng, bao năm qua người Raglai vẫn thủy chung, cố tâm gìn giữ những báu vật, không có ý định chiếm hữu làm của riêng. Chính điều này đã tạo nên dấu ấn lạ kỳ trong lịch sử, tạo nên phong tục đặc sắc mà không phải mấy ai cũng đuợc rõ căn cơ ẩn sau nó!

(Theo ANTG)