(VEF.VN) - Việt Nam nên thuê tư vấn nước nước ngoài để hoạch định chiến lược CNH cho mình, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến công nghệ, chu kỳ và cách mạng công nghệ, cơ hội cửa sổ, v..v. Việc này có thể làm tập trung  ở cấp trung ương với một nhóm công tác. Nhóm này sẽ dần tiếp thu được "công nghệ" CNH và dần có thể theo dõi, điều hành.

Sự phát triển đột biến về công nghệ và các định chế kinh doanh toàn cầu từ cuối thế kỷ 20 làm thay đổi hoàn toàn lý thuyết về công nghiệp hóa (CNH). CNH kiểu cũ không còn môi trường hoạt động, trở nên lỗi thời và dẫn đến thất bại nếu vẫn áp dụng. Ngày nay, muốn CNH phải hiểu về Công-Nghệ, các hệ thống của nó, nắm được các quy luật vận động để "đáo giang" (qua sông) đúng lúc, hợp với "dòng chảy" của công nghệ và với sự đóng, mở của các cơ hội cửa sổ (window opportunites).

Khác biệt giữa CNH kinh điển và CNH ở thế kỷ 21

Trong bài này, thuật ngữ CNH vẫn cố ý được dùng để dễ hiểu tuy nội hàm của nó đã khác xa với kinh điển. Nó có thể không liên quan mấy tới  "công nghiệp" theo nghĩa truyền thống, mà đến kinh doanh, đến dịch vụ, đến tính sáng tạo, đến xã hội, ..v..v. Nó có thể không mang tính cân đối trong phạm vi một quốc gia "đóng" mà lại gắn chặt vào hệ thống sản xuất - kinh doanh, vào các chuỗi cung ứng trên thế giới.

Đặc điểm và sự khác biệt giữa CNH kinh điển và CNH từ cuối thế kỷ 20 như sau.

Một là: Yếu tố quyết định để CNH từ cuối thế kỷ 20 là Công-Nghệ chứ không còn là Vốn (Capital) hay Lao Động (Labor) như trước đây. Việc chuyển vai chính sang công nghệ đòi hỏi phải nghiên cứu các mối liên kết của công nghệ, chứ không phải của vốn và các vấn đề liên quan như lao động, giá trị, ..v..v. như K. Marx và các đồng sự đã làm trước đây. Nghiên cứu về công nghệ tốn kém và cần tính chuyên môn cao hơn so với nghiên cứu về vốn, lao động, giá trị, tương tự như học phí đại học ngành công nghệ cao gấp rưỡi hay gấp đôi học phí ngành kinh tế (ở các phát triển) do cần thí nghiệm, máy móc. Hiện Việt Nam chưa nghiên cứu, học tập kinh nghiệm thỏa đáng về các vấn đề này.

Hai là: Toàn cầu hóa tác động vào các nước mạnh hơn so với thế kỷ 17, 18 hay khi mới CNH và 1970-80, khi bốn nước châu Á công nghiệp hóa thành công. Càng phát triển, tác động này càng nhanh hơn, mạnh, với tính bất khả tiên lượng và tính phức tạp cao hơn, vv. Qua đó, CNH dựa rất nhiều vào việc hành động đúng quy luật, hợp với "dòng" chuyển động của các hệ thống bên ngoài.

Ba là: Ở CNH kinh điển, nhà nước, "bàn tay hữu hình", có vai trò rất lớn vì nắm vốn, thị trường nội địa, chính sách, bảo hộ, doanh nghiệp nhà nước, vv.

Nay, thị trường và tư nhân đang dần đóng vai chính. Vì vậy, CNH kiểu kinh điển với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không thể được vì không huy động được sức mạnh chính của nền kinh tế. Chỉ nhà nước có nền kinh tế thị trường mang tính chuyên nghiệp mới quản lý, giải quyết tốt mối tương tác này giữa Nhà nước và thị trường cũng như các mối liên kết công nghệ.

Công nghiệp hóa theo kiểu kinh điển ở thế kỷ 21 có khả thi?

Mô hình CNH tuần tự, tuyến tính từ công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, điện, ..v..v.. đã trở nên không khả thi trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi các công ty đa quốc gia và các cường quốc kinh tế chia sẻ lợi ích với nhau, tạo ra các định chế, hiệp ước kinh tế có lợi cho họ, kéo các nước đang phát triển vào vòng xoáy khó bề thoát ra nổi. Ngày nay, không thể dựa vào vốn và chính sách bảo hộ thị trường nội địa như thời CNH kinh điển được nữa.

Công nghệ nay đã phát triển trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tỷ trọng của năng suất lao động (mà phần chính là công nghệ) đã gia tăng và trở nên áp đảo so với vốn và lao động trong việc tạo ra giá trị (đây là lao động giản đơn trong lý thuyết CNH kinh điển). Vì vậy, ngày nay, cách tối ưu để CNH là thông qua công nghệ, chứ không phải vốn và lao động.

Vì sao đây là con đường duy nhất đến CNH?

Công nghệ đang dần thay đổi cách sống của con người, cách thức điều hành xã hội. CNH, với cỗ máy làm giàu chính là công nghệ, ngày càng ít mang tính chính trị và tính chuyên môn ngày càng cao.

Không phải ý chí, quyết tâm, vốn, thậm chí tài nguyên, vật chất, quyết định thành công của CNH mà là sự hiểu biết cách thức, chu kỳ hoạt động của công nghệ và các hệ thống sản xuất - kinh doanh toàn cầu. Thuyền lớn nếu không biết dòng chảy, chỗ xoáy, con nước sẽ khó đáo giang hơn thuyền nhỏ mà biết các quy luật này.

Phạm trù công nghệ ngày nay đã rộng hơn rất nhiều so với thời kỳ CNH kinh điển. Khác với CNH kinh điển với máy móc, thiết bị "cứng", nay công nghệ "mềm", sản phẩm trực tiếp nhất của tri thức, các know-how về quy trình kỹ thuật và phi kỹ thuật, về công nghệ trong thương mại, kinh tế, kinh doanh, ngày càng trực tiếp và đóng góp lớn để tạo ra giá trị, trở nên áp đảo so với công nghệ mang tính vật thể. Dưới giác độ này, CNH, với các hệ thống liên quan phức tạp của nó, cũng là một công nghệ.

Công nghệ ngày nay hòa vào quá trình tạo ra giá trị, nó trở cấu phần của doanh nghiệp. Điều này khác hẳn với thời kỳ CNH kinh điển khi mà công nghệ đi liền, hay là "công đoạn" tiếp theo của khoa học. Điều này làm giảm tính kinh tế của công nghệ và làm nó khó nắm bắt được "hơi thở" của thị trường để phục vụ. Đây là lý do vì sao R&D (Nghiên cứu và Phát triển) ngày càng rời xa tháp ngà khoa học và đi vào doanh nghiệp. Lưu ý là công nghệ ở đây bao gồm cả cho sản xuất sản phẩm hữu hình và vô hình cũng như trong thị trường sở hữu trí tuệ, nơi chắc chắn sẽ ngày càng sôi động.

Các "công đoạn" của cái ngày xưa gọi là khoa học và công nghệ, thường tuần tự, tách bạch, từ hhoa học rồi qua công nghệ. Nay, do sự hợp lưu (convergence) của rất nhiều công nghệ và len lỏi, vào cuộc của thị trường công nghệ, các công đoạn bị cắt nhỏ ra, đan xen, hòa quyện vào nhau, tạo ra rất nhiều "ngã rẽ" (những điểm bán, mua công nghệ), giống liên kết chùm hơn là các mạch tuyến tính. Hệ thống này làm tăng việc thương mại hóa công nghệ.

"Đổi mới" (hay đổi mới -sáng tạo, Innovation), với mục đích thương mại hóa tri thức, có nội hàm rộng hơn và đem lại giá trị hơn nhiều so với "khoa học và công nghệ" ở thời kỳ CNH kinh điển. Thị trường công nghệ (khá độc lập với khoa học), với các doanh nghiệp đổi mới - sáng, tiêu biểu là Thung lũng Silicon của Mỹ, tạo ngày càng tạo ra nhiều giá trị và ngày càng sôi động. Đổi mới - sáng tạo tự nó sẽ "kéo" công nghệ dần xa khỏi khoa học và hòa nó vào doanh-nghiệp, nơi tạo ra giá trị.

Các chuyên gia nói: Đổi Mới-Sáng Tạo đang xóa bỏ sự "cưỡng hôn" giữa Công-Nghệ và Khoa-Học là vì vậy.

Gợi suy cho Việt Nam

Cần hiểu các mối liên kết công nghệ như: chu kỳ công nghệ, đường cong tiến hóa của từng công nghệ, rào cản của thị trường công nghệ cụ thể, quy luật dòng chuyển giao công nghệ, hệ thống công nghệ, phát triển tiệm tiến, hay đột biến của công nghệ, cách mạng công nghệ, mô thức kinh tế -công nghệ, độ trễ trong công nghệ, đặc biệt, các "đứt đoạn" (discontinuities) hay còn gọi là các cửa sổ (windows) trong sự tiến hóa của công nghệ, nơi mà các nước (hay doanh nghiệp) có thể "nhảy cóc" vào được. Các cơ hội này thường có ở các cuộc cách mạng công nghệ (hay các đột phá công nghệ), thường diễn ra cứ nửa thế kỷ một lần, với sự thay đổi hướng hay bước ngoặt về công nghệ. Đây là những "bến đỗ" hiếm hoi của con tàu công nghệ và văn minh nhân loại để lấy thêm du khách và thải ra những hành khách không thể theo kịp. Muốn du hành trên con tàu Phát-Triển thì phải lên tàu ở những bến đỗ đó. Nếu không tìm ra "công nghệ" để bước lên được con tầu đó thì không thể CNH thành công. Chính vì vậy, công nghệ là con đường duy nhất để CNH. Do tính chuyên môn, các vấn đề trên sẽ được đề cập chi tiết trong các bài sau.

Việt Nam luôn khẳng định CNH nhưng chưa hiểu rõ và thống nhất về CNH. Nguy hiểm ở chỗ: vẫn theo CNH kinh điển dù không khả thi, hoặc là không rõ nội dung, nhưng vẫn theo đuổi mà chưa bao giờ thực sự nhập cuộc.

Giới chuyên môn cần nói cho lãnh đạo rõ: Công-Nghệ hay CNH có thể đem lại gì. Qua đó, một mặt, tránh trông đợi quá viển vông vào CNH; mặt khác, biết cái có thể đạt được để mà thực hiện. Cả hai mặt yếu sau ta đều có. Một là coi CNH như cây đũa thần sinh ra mọi thứ. Hai là không biết cái có thể đạt được để làm.

Việc "đặt bài" chưa rõ nên chương trình CNH, khoa học và công nghệ trở nên chông chênh, không có mục tiêu rõ ràng cần đạt tới. Khoa học và công nghệ, vốn dĩ dễ xa rời hiệu quả kinh tế, thì trong hoàn cảnh này lại càng bị phân tán. Đây là việc mang tính chuyên môn của cả lãnh đạo và nhà chuyên môn. Cần có cơ chế để lãnh đạo lắng nghe chuyên môn (giỏi) và giới chuyên môn đưa ra được phương án để lãnh đạo chọn.

Việt Nam nên thuê tư vấn nước nước ngoài để hoạch định chiến lược CNH cho mình, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến công nghệ, chu kỳ và cách mạng công nghệ, cơ hội cửa sổ, vv. Việc này có thể làm tập trung  ở cấp trung ương với một nhóm công tác. Nhóm này sẽ dần tiếp thu được "công nghệ" CNH và dần có thể theo dõi, điều hành.

Việt Nam không chỉ kém ở công nghệ mà còn ở sự hiểu biết về hệ thống sản xuất - kinh doanh trên thế giới, về chuỗi cung ứng cùng cách hoạt động, quy luật của nó.

Tính công nghệ ta cần chỉ ở mức áp dụng chứ không phải sáng tạo. Vì vậy, chương trình đại học công nghệ ở Việt Nam chuyển từ nặng về công nghệ cụ thể sang về quy trình công nghệ, hệ thống công nghệ - chuỗi cung ứng - kinh doanh - toàn cầu hóa.

Ta áp dụng công nghệ nhưng chưa chú ý đến các liên kết của nó, nên công nghệ bị tách rời khỏi các điều kiện "sống" của nó. Các công nghệ khác nhau lại cần các liên kết khác nhau. Ví dụ, công nghệ cao đòi hỏi tính liên kết giữa các bên tham gia cao hơn nhiều so với công nghệ truyền thống. Muốn phát triển công nghệ cao thì tính liên kết với bên ngoài phải mạnh hơn, phải gắn chặt vào các chuỗi cung ứng trên thế giới chứ không mấy liên quan đến các suy tính nội địa.

Công nghệ không chỉ để CNH quốc gia, mà nên xem xét tính khả thi của việc đưa nó thành một ngành kinh tế riêng biệt. Lúc đó, ngành kinh tế công nghệ mang tính độc lập nhất định, không nhất thiết (và không nên) mang nhiều liên kết nội địa, mà gắn với thị trường tri thức, nhân công chất xám ở bất cứ đâu mà nó tạo ra giá trị nhiều nhất. Đó là cấu phần với tính hiệu quả cao trong nền Kinh tế tri thức Việt Nam.
_____________________

(*) TS. Đinh Thế Phong, Bộ KH&CN, dtphong@most.gov.vn