Cách mạng tháng Tám thành công mở ra chân trời mới cho sự phát triển của đất nước 66 năm qua. Cũng trong tiến trình ấy, doanh nghiệp Việt Nam vươn lên, đóng góp ngày càng nhiều cho công cuộc phát triển không ngừng của quốc gia, dân tộc.

Trước Cách mạng tháng Tám, số doanh nghiệp (DN) và số công nhân còn rất ít ỏi. DN dân tộc và chủ DN là người Việt Nam còn ít hơn. Ngày nay, DN, doanh nhân Việt Nam đã phát triển cùng với sự phát triển của đất nước.

Trước thời kỳ đổi mới (1986), nền kinh tế nước ta có 2 hình thức DN chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, bị hạn chế, bất cập về hai mặt. Một mặt, DN gần như không có hạch toán, không phát huy tính năng động sáng tạo, gần như thụ động trông chờ Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước bao cấp tràn lan ở mọi khâu, mọi mặt (vốn, vật tư, lao động, tiêu thụ, phân phối theo tem phiếu, định lượng hiện vật lãi lỗ,…). Một quy trình ngược đã hình thành là Nhà nước đi vay để nuôi DN.

Sau khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập, đặc biệt từ sau khi có Luật DN, các DN Việt Nam đã phát triển mạnh về nhiều mặt.

 

DN năm 2010 so với năm 2000 (lần). Nguồn: Tổng cục Thống kê

Sự phát triển của DN Việt Nam được thể hiện trên 10 điểm đáng lưu ý.

Một, đổi mới, mở cửa hội nhập đã tạo điều kiện cho số DN ra đời ngày càng nhiều. Số DN thực tế đang hoạt động đầu năm 2010 nhiều gấp khoảng 1.245 lần trước Cách mạng. Không những tăng về tổng số DN mà còn có sự chuyển dịch cơ cấu DN theo hướng tích cực. So với 10 năm trước, trong khi số DN nhà nước giảm mạnh (giảm 2.390 DN hay giảm 41,5%), thì số DN ngoài nhà nước tăng khá: nhiều gấp trên 6,8 lần, trong đó DN tư nhân gấp 2,3 lần, DN loại khác (như công ty hợp danh, công ty TNHH tư nhân, công ty cổ phần) gấp gần 16 lần; số DN khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) gấp 4,3 lần.

Hai, các DN đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động. Tổng số lao động đang làm việc trong các DN Việt Nam hiện có khoảng 9 triệu người, chỉ so với cách đây 10 năm, đã nhiều gấp trên 2,5 lần.

Ba, các DN đã thu hút một lượng vốn khá lớn của xã hội. Tổng số vốn sản xuất, kinh doanh bình quân năm của các DN Việt Nam hiện đạt 7.780,2 nghìn tỷ đồng, cao gấp 7,1 lần cách đây 10 năm. Trong đó, DN nhà nước gấp 4 lần và chiếm 38,7%; DN ngoài nhà nước gấp 31,3 lần và chiếm 45,6%; DN khu vực có vốn ĐTNN gấp 5,1 lần và chiếm 15,7%. Như vậy, DN nhà nước vẫn là nơi chiếm tỷ trọng vốn lớn; DN ngoài nhà nước tăng nhanh nhưng lượng vốn bình quân vẫn thấp.

Bốn, các DN đã tăng đầu tư đổi mới thiết bị - công nghệ, với tổng giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn 3.592,8 nghìn tỷ đồng, cao gấp 8,7 lần cách đây 10 năm. Trong đó của các DN nhà nước là 1.613,3 nghìn tỷ đồng, gấp trên 7 lần và chiếm 44,9%; DN ngoài nhà nước đạt 1.289,2 nghìn tỷ đồng, gấp 38 lần và chiếm 35,9%; của các DN khu vực có vốn ĐTNN đạt 690,3 nghìn tỷ đồng, gấp 28,7 lần và chiếm 19,2%. Như vậy, các DN nhà nước đầu tư lớn hơn; các DN ngoài nhà nước tăng nhanh, nhưng việc đầu tư đổi mới chưa nhiều.

Năm, doanh thu thuần gần 5.789,7 nghìn tỷ đồng, cao gấp 7,1 lần cách đây 10 năm.

Các DN Việt Nam đã đóng góp phần quan trọng tạo ra GDP của cả nước. Trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực đến Việt Nam, các DN đã cùng Nhà nước và toàn dân nỗ lực vượt qua thách thức, giúp cho nền kinh tế không bị suy thoái.

Sáu, các DN không những giữ được sản xuất kinh doanh, mà còn tăng được tiêu thụ trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các DN đã cải tiến mẫu mã, chất lượng, tích cực đưa hàng về nông thôn. Xuất khẩu năm 2010 và 8 tháng đầu năm 2011 đã có những tín hiệu khả quan về quy mô và tốc độ tăng trưởng cao.

Bảy, mặc dù gặp khó khăn ở đầu vào, ở đầu ra, các DN Việt Nam đã tiết giảm chi phí để có lợi nhuận và chấp hành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Thu từ khu vực DN chiếm trên dưới 69% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong 8 tháng đầu năm 2011, tỷ lệ thu so với dự toán cả năm của khu vực DN nhà nước bằng 61,1%, của DN có vốn FDI (không kể dầu thô) bằng 60,4%, của khu vực ngoài nhà nước (trong đó có DN ngoài nhà nước) đạt 65,1%.

Nhưng điều quan trọng hơn là trước kia Nhà nước đi vay để nuôi DN, còn bây giờ, DN đã nuôi Nhà nước. Đây chính là sự chuyển đổi vị thế của DN trong quá trình đổi mới, chuyển đổi cơ chế.

Tám, cùng với sự phát triển của DN là sự ra đời và tăng lên nhanh chóng của đội ngũ doanh nhân. Đội ngũ doanh nhân không chỉ tăng lên về số lượng mà còn có sự chuyển dịch về cơ cấu, đó là sự tăng lên của tỷ trọng số doanh nhân trẻ, doanh nhân có bằng cấp, doanh nhân năng động sáng tạo ứng phó tốt với biến đổi nhanh, phức tạp và khó lường của tình hình trong và ngoài nước.

Chín, DN Việt Nam là lực lượng chủ yếu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế.

Theo ngành kinh tế, số lượng DN tập trung ở nhóm ngành dịch vụ, trong đó chủ yếu là thương nghiệp. Số lao động tập trung chủ yếu ở nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, chủ yếu ở công nghiệp chế biến. Số vốn tập trung chủ yếu ở ngành dịch vụ, tài sản cố định và đầu tư dài hạn tập trung chủ yếu ở công nghiệp chế biến và dịch vụ. Doanh thu chủ yếu ở nhóm ngành dịch vụ và công nghiệp, trong nhóm ngành dịch vụ thì tập trung vào thương nghiệp và trong công nghiệp thì tập trung chủ yếu ở công nghiệp chế biến.

Mười, DN đã tích cực trong hoạt động xã hội, như tham gia các chương trình từ thiện, tài trợ, hỗ trợ người nghèo, người bị thiên tai, nuôi dưỡng các mẹ Việt Nam anh hùng,...

Tuy nhiên, trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng trên thế giới, cộng hưởng với việc thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô ở trong nước, các DN Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, rất cần sự hỗ trợ, động viên của Nhà nước và các ngành, các cấp.

Theo Minh Ngọc (chinhphu.vn)