Có thể thấy, Bộ GD-ĐT đã nghiêng về thực hiện phương án này, khi trong trong dự thảo mới nhất của Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông (tháng 8/2014), phần Kế hoạch giáo dục được xây dựng theo phương án 1 - giáo dục cơ bản được thực hiện trong 10 năm học.
Đại diện lãnh đạo Bộ GD-ĐT cho biết, vấn đề xác định lại số năm học của mỗi cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông còn cần thời gian hoàn chỉnh và thông qua Ủy ban quốc gia Đổi mới giáo dục và đào tạo vào ngày 28/8, trước khi trình Quốc hội.
|
Bộ GD-ĐT vừa đưa ra dự kiến thay đổi số năm học ở mỗi cấp học phổ thông. Ảnh: Văn Chung |
Để bạn đọc hình dung rõ hơn, VietNamNet tóm lược cụ thể kế hoạch này.
Các lĩnh vực giáo dục của chương trình phổ thông
bao gồm: Ngôn ngữ (Tiếng Việt, ngoại ngữ, tiếng mẹ đẻ/ tiếng dân tộc
(nếu có)); Toán học; Đạo đức – công dân; Thể chất; Nghệ thuật; Khoa học
tự nhiên; Khoa học xã hội và nhân văn; Công nghệ.
Hệ thống môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo (ảnh dưới đây)
Mục tiêu chủ yếu là tập trung hình thành, phát triển năng lực giao
tiếp, tư duy, sáng tạo, cả thụ văn học và những phẩm chất tâm hồn cao
đẹp, những quan niệm sống và ứng xử nhân văn thông qua các kỹ năng đọc,
viết, nghe, nói là chính. Đánh giá kết quả học tập phải theo chuẩn năng
lực ngữ văn. Hạn chế kiểm tra khả năng ghi nhớ máy móc, khuyến khích
những suy nghĩ độc lập, sáng tạo.
Ngoại ngữ 1, ngoại ngữ 2: Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc từ
lớp 3 đến lớp 12. Ngoại ngữ 2 là môn học tự chọn không bắt buộc, có thể
bắt đầu hoặc kết thúc học từ bất kỳ lớp nào trong các lớp từ 3 đến 12
tuỳ theo nhu cầu của học sinh và khả năng đáp ứng của cơ sở giáo dục.
Chương trình dạy học ngoại ngữ được thiết kế nhằm hình thành và phát
triển năng lực giao tiếp bằng tiếng nước ngoài của học sinh thông qua
phát triển cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết theo các mức khác nhau dựa
theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam.
Tiếng dân tộc là môn học tự chọn không bắt buộc, có thể bắt đầu hoặc
kết thúc học từ bất kỳ lớp nào trong các lớp từ lớp 3 đến lớp 10.
Toán học
là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12. Cấu trúc chương trình môn toán
dựa trên sự phối hợp cả cấu trúc tuyến tính với cấu trúc “xoáy trôn ốc”
và xoay quanh và tích hợp 3 mạch kiến thức: Số và Đại số; Hình học và
đo lường; Thống kê và xác suất. Đối với cấp THPT, môn Toán được phân hoá
sâu bằng các chuyên đề học tập tự chọn, người học sẽ lựa chọn phù hợp
với sở thích và định hướng nghề nghiệp. Đánh giá kết quả học tập chủ yếu
bằng hình thức tự luận, kết hợp trắc nghiệm khách quan.
Lĩnh vực Giáo dục Đạo đức – Công dân có phạm vi nội dung của
các môn học bao gồm các mạch kiến thức cơ bản về giáo dục đạo đức, pháp
luật, giá trị sống, kỹ năng sống, những hiểu biết ban đầu về kinh doanh
và quốc phòng – an ninh… Các phương pháp dạy học chủ yếu là phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình kết hợp những tấm gương công dân tiêu
biểu, xử lý tình huống có tính thời sự về đạo đức, pháp luật trong cuộc
sống hàng ngày; đóng vai; dự án và giải quyết vấn đề.
Thể dục - Thể thao là môn học bắt buộc trong đó hoạt động thể thao là hoạt động tự nguyện của học sinh trong nhà trường từ lớp 1 đến lớp 12.
Lĩnh vực giáo dục nghệ thuật:
Mỹ thuật là môn học tự chọn bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 10, là môn học tự
chọn bắt buộc theo nhóm môn từ lớp 11 đến lớp 12. Âm nhạc là môn học
góp phần giáo dục thẩm mĩ, cũng là môn học tự chọn bắt buộc từ lớp 1 đến
lớp 10, là môn học tự chọn bắt buộc theo nhóm môn từ lớp 11 đến lớp 12.
Lĩnh vực Khoa học Xã hội và nhân văn có các môn học: Cuộc
sống quanh ta (lớp 1, 2, 3); Tìm hiểu xã hội (lớp 4, 5); Khoa học xã hội
(cấp THCS); Lịch sử, Địa lý, Khoa học xã hội (cấp THPT).
Cuộc sống quanh ta là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 3 (tích hợp các nội dung Tự nhiên, Xã hội); lên lớp 4, 5 tách ra thành 2 môn học bắt buộc là Tìm hiểu Tự nhiên, Tìm hiểu xã hội.
Khoa học xã hội là môn học bắt buộc ở cấp THCS, được phát triển từ môn Tìm hiểu xã hội ở các lớp 4, 5; là môn học tích hợp chủ yếu các lĩnh vực kiến thức về Lịch sử, địa lý, một số nội dung kinh tế, xã hội…; lên lớp 11, 12 tách thành các môn học tự chọn Lịch sử, Địa lý (tự chọn bắt buộc theo nhóm môn); đồng thời vẫn có môn khoa học Xã hội (tự chọn bắt buộc theo nhóm môn) dành cho học sinh không học các môn Lịch sử, Địa lý.
Nội dung cốt lõi của các môn học được tổ chức theo các mạch chính: Đại cương, thế giới, khu vực, Việt Nam và địa phương. Cấu trúc nội dung môn Khoa học xã hội ở cấp THCS và cấp THPT có các chủ đề của mỗi phân môn được sắp xếp gần nhau nhằm soi sáng và liên hệ lẫn nhau, đồng thời có thêm một số chủ đề liên phân môn; Ở cấp THPT gồm các nội dung mang tính tuyến tính hoặc đồng tâm với cấp THCS.
Lĩnh vực Khoa học Tự nhiên có các môn học: Cuộc sống quanh ta
(lớp 1, 2, 3); Tìm hiểu Tự nhiên (lớp 4, 5); Khoa học Tự nhiên (cấp
THCS); Vật lý, Hoá học, Sinh học, Khoa học Tự nhiên (cấp THPT).
Khoa học Tự nhiên
là môn học bắt buộc ở cấp THCS, được phát triển từ môn Tìm hiểu Tự
nhiên ở các lớp 4, 5; là môn học tích hợp chủ yếu các lĩnh vực kiến thức
về Vật lý, Hoá học, Sinh học…; lên lớp 11, 12 tách thành các môn học tự
chọn bắt buộc theo nhóm môn; đồng thời vẫn có môn Khoa học Tự nhiên tự
chọn bắt buộc theo nhóm môn dành cho học sinh không học các môn Vật lý,
Hoá học, Sinh học.
Lĩnh vực Công nghệ có mục tiêu ở Tiểu học và THCS là hình
thành ở học sinh các năng lực về ngôn ngữ, thiết kế, chế tạo và sử dụng
công nghệ trong các lĩnh vực phổ biến, phù hợp với thực tiễn và định
hướng phát triển của đất nước…
Ở Tiểu học và THCS, lĩnh vực Công nghệ được thể hiện thông
qua một môn học và được đặt tên là Máy tính - Kỹ thuật (tiểu học), Tin
học ứng dụng – Công nghệ (THCS) và thuộc hình thức tự chọn bắt buộc theo
chủ đề. Lên THPT, lĩnh vực công nghệ thuộc hình thức tự chọn bắt buộc
theo nhóm môn, được thể hiện thông qua hai môn học riêng biệt là Tin học
và Công nghệ.
Các Chuyên đề học tập dành cho học sinh các lớp THPT tự chọn
bắt buộc theo chủ đề. Hệ thống các chuyên đề học tập được sắp xếp theo
các lĩnh vực đào tạo của giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp
(khoảng 10 khối ngành) mà học sinh sẽ tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động và được chia thành 2 loại: Chuyên đề học tập mở rộng nhằm
giúp học sinh sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản
và chuyên đề học tập nâng cao nhằm giúp học sinh có những hiểu biết
chung, khái quát (có tính nhập môn), định hướng nghề nghiệp, học tập lên
trình độ cao hơn. Bộ GD-ĐT sẽ công bố danh mục chuyên đề tự chọn cấp
THPT và tài liệu học tập tương ứng; Sở GD-ĐT sẽ căn cứ vào tình hình
kinh tế xã hội, các nghề ở địa phương mà xây dựng bổ sung một số chuyên
đề học tập phù hợp; số lượng và thành phần các chuyên đề có thể tăng
thêm qua các năm học.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động tự chọn bắt buộc
dành cho tất cả học sinh từ lớp 1 đến lớp 12. Hoạt động trải nghiệm sáng
tạo sử dụng các hình thức và phương pháp chủ yếu sau: Thực địa, tham
quan, câu lạc bộ, hoạt động xã hội/ tình nghuyện, dự án và nghiên cứu
khoa học, diễn đàn, giao lưu, hội thảo, trò chơi, cắm trại, thực hành
lao động…
Tự học có hướng dẫn: đối với các trường tiểu học thực hiện
dạy học 2 buổi trong ngày, ngoài các môn học, hoạt động trải nghiệm sáng
tạo, ở tất cả các lớp đều có hoạt động tự học có hướng dẫn. Giáo viên
giúp đỡ, hướng dẫn học sinh tự học ở trường, giảm tối đa việc học ở nhà;
góp phần hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh.
Về Thời lượng giáo dục, cấp Tiểu học mỗi năm
học có 35 tuần thực học, mỗi tuần có 5 ngày học, mỗi ngày học 2 buổi,
buổi sáng không quá 4 tiết và buổi chiều không quá 3 tiết, mỗi tiết 40
phút. Tổng thời lượng giáo dục của cấp tiểu học trong một năm học không
quá 6.125 tiết.
Cấp trung học cơ sở: Mỗi năm học có 35 tuần thực học,
mỗi tuần có 6 ngày học, mỗi ngày học 1 buổi không quá 5 tiết, mỗi tiết
45 phút. Tổng thời lượng giáo dục của cấp trung học cơ sở trong một năm
học không quá 5.250 tiết.
Cấp trung học phổ thông: Mỗi năm học có 35 tuần thực
học, mỗi tuần có 6 ngày học, mỗi ngày học 1 buổi không quá 5 tiết, mỗi
tiết 50 phút. Tổng thời lượng giáo dục của cấp trung học phổ thông trong
một năm học không quá 2.100 tiết.
- Ngân Anh