- “Sự lớn lao của ông không chỉ ở trong tảng nền tri thức mà còn toát lên từ tình cảm, nhân cách làm người”.
GS Sử học Đinh Xuân Lâm. |
GS. Đinh Xuân Lâm sinh ngày 4/2/1925 tại xã Sơn Tân, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quan lại phong kiến.
Từ 9 tháng tuổi, ông theo song thân ra sinh sống và trưởng thành ở Thanh Hoá, gắn bó với mảnh đất này như quê hương thứ hai của mình. Sau khi đỗ thành chung, ông học Trường Quốc học Huế và tốt nghiệp tú tài toàn phần ban Triết học văn chương.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông là một trong những giáo sư Trung học đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. Khi hoà bình lập lại (1954), chàng thanh niên Đinh Xuân Lâm được chuyển thẳng lên năm thứ 2 Đại học Sư phạm Văn khoa, đồng môn với Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng.
Việc GS. Trần Văn Giàu (bấy giờ là Chủ nhiệm khoa) "bắt cóc" anh vào Khoa sử có lẽ là sự định sẵn của tiền duyên với chàng trai yêu văn chương nhưng hiểu rất rộng về lịch sử này.
Những năm tháng sống hoà đồng cùng bạn bè, anh Lâm là một sinh viên - giáo viên hưởng lương nhưng vẫn ngày ngày cuốc bộ cùng mọi người từ Khu học xá Đông Dương cũ (nay là Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) lên giảng đường 19 Lê Thánh Tông.
Trong mắt bạn bè, anh là người bạn vong niên đầy tình nghĩa, sống đơn sơ nhưng hay vui chuyện và có lối nói hóm hỉnh, bông đùa mà trí tuệ. Trong số các bạn học, anh là người được thầy Trần Văn Giàu quý nhất.
Không phụ lòng thầy, anh và Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê đã đỗ "tam khôi" khoá đó (1956). Cả ba được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Dưới sự dìu dắt của thầy Giàu, anh Lâm ở lại Bộ môn Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, phấn đấu không mệt mỏi để lần lượt góp tên vào các công trình: "Lịch sử Việt Nam 1897 - 1914" (1957), "Hoàng Hoa Thám và phong trào nông dân Yên Thế" (1958), "Lịch sử Việt Nam cận đại" (1959 - 1961)… và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu trong đội ngũ những người nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận đại như ngày nay.
Ông được phong học hàm Phó giáo sư năm 1980 và Giáo sư năm 1984, ngành Sử học.
Tiếp xúc với GS. Đinh Xuân Lâm, tôi bị cuốn hút bởi vầng trán cao, đôi mắt sáng, mái tóc bạc và nụ cười nhẹ nhõm như không thể tách rời tính cách dễ gần, cởi mở, phong cách bình dị, lối sống mộc mạc, chan hoà, nhân ái trong con người của ông.
Bạn bè, đồng nghiệp và học trò luôn tìm được trong sự phóng khoáng, bộc trực của ông (cái chất con người Nghệ Tĩnh - di sản văn hoá xứ Nghệ) một niềm cảm thông, chia sẻ và tin tưởng.
GS. Trần Quốc Vượng - người "bạn vàng" (Ami Jaune - như ông gọi) đã rất "nhạy" khi nhận ra trong hành trang tri thức và thế ứng xử của GS. Đinh Xuân Lâm "nét tinh tế và nghi thức của văn hoá Huế (...), sự trong sáng, thanh tao, lãng mạn... của văn hoá Pháp" đã tạo nên nét tính cách "hiền lành (...), nhìn sự đời trôi chảy khá thản nhiên, ít ưu tư, có vẻ không chắc, không sâu, không sắc (...) nhưng chín chắn hơn mà không đến nỗi rụt rè, thanh thản hơn mà không phù phiếm, ít tham vọng hơn mà không phải không làm việc hết mình cho một kỳ vọng hay lý tưởng nào đó" mang dáng dấp của người quân tử sửa mình theo đạo Trung dung.
Có thể nói ngay từ khởi điểm sự nghiệp sử học, cuộc đời ông đã gắn chặt với sự nghiệp trồng người và dù trong hoàn cảnh khó khăn cuộc sống đạm bạc, đêm đêm cặm cụi bên ngọn đèn dầu hạt đỗ, đạp xe xuyên đêm từ Đại Từ (Bắc Thái) về Hà Nội thời kháng chiến hay khi đất nước đã im tiếng súng, ông đều coi sự nghiệp nghiên cứu và trồng người là một.
Năm 1988, khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân - danh hiệu cao quý nhất của ngành giáo dục - ông đã tâm sự với những học trò đến chúc mừng mình bằng những lời thấm thía: "Huân chương vô giá, đối với tôi, đó chính là thế hệ các anh và những thế hệ sau các anh mà tôi đã góp phần đào tạo, những thế hệ đã và đang đóng góp lao động có ích cho xã hội ở nhiều lĩnh vực".
Trong buổi lễ hôm đó có người đã khóc trước niềm vui và tấm lòng của người thầy mẫu mực và đáng kính.
GS Đinh Xuân Lâm ở độ tuổi 90. |
Khi bước vào nghề làm sử (những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước), GS. Đinh Xuân Lâm đã định hướng và thành công trong nghiên cứu về phong trào dân tộc cuối thế kỷ XIX, những đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương... trong khi đội ngũ các nhà sử học lúc đó tuy chưa nhiều nhưng có không ít người đã nổi danh như: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Văn Tân, Hoa Bằng...
Ông là một người luôn tự vận động không mệt mỏi khẳng định "bản lĩnh sử gia" có dũng khí vượt qua mọi khó khăn về tài liệu, phương pháp cũng như yêu cầu về khả năng và trình độ để đi sâu vào công tác chuyên môn. Dù là sự kiện lịch sử hay nhân vật ở "tầm cỡ" nào đều mang lại hứng thú nghiên cứu cho ông.
Có nghiên cứu sinh khi được ông gợi mở về những tên đất, tên người… mờ nhạt trôi đi trong lịch sử mới nhận ra sự vu khoát trong luận văn của mình khi đề cập những điều "đao to, búa lớn" mà chưa nhìn ra vấn đề từ những chi tiết tưởng như nhỏ nhất.
GS. Đinh Xuân Lâm là người uyên bác, đọc nhiều nhưng không thích lối lập luận "đại ngôn" với những thuật ngữ cầu kỳ. Ông vẫn giản dị thế, bình dị thế mà cần mẫn, năng nhặt cho chặt bị vốn kiến thức sâu rộng của mình. Đọc những công trình của ông, ta thấy ngòi bút sử học cũng giống như tính cách của ông: luôn đĩnh đạc, chắc chắn, tự tin với những kiến giải, tranh luận nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà không kém phần sắc sảo khi cần bộc lộ quan điểm cá nhân.
Chắc hẳn ông đã trăn trở rất nhiều bên trang viết bởi giai đoạn lịch sử Việt Nam cận đại mà ông chuyên tâm nghiên cứu là một bước chuyển lịch sử không hề đơn giản. Ông nghiêm túc với bản thân khi cần thay đổi cách nhìn và có khi phủ định chính mình. Đó chính là tinh thần trách nhiệm, dám đặt lại vấn đề với những sự kiện và nhân vật phức tạp mà cao hơn là ý thức về những trang viết của chính mình.
Với sức viết bền bỉ, dẻo dai và khả năng cộng tác, làm việc theo nhóm hiếm có của mình, GS. Đinh Xuân Lâm đã viết và đứng tên hơn 370 bài báo, 7 đề tài nghiên cứu khoa học và 90 đầu sách. Ông đặc biệt có duyên với loại sách giáo khoa phổ thông, sách công cụ, từ điển...
Qua giọng nói và từng trang viết của ông, môn sử không hề khô khan như nhiều người vẫn nghĩ. Là một cán bộ có nhiều kinh nghiệm sư phạm, phong cách điềm đạm, khúc triết và khá hùng biện cùng thái độ khiêm nhường, cởi mở, thoải mái, ông đã mang lại sức sống cho các giờ giảng và nhen lên trong lòng các thế hệ học trò tình yêu đối với môn học, với cội nguồn và truyền thống dân tộc.
Có người chỉ nghe thầy giảng một chuyên đề "Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Đông Dương" mà đã giải mã được sự lớn lao của ông trong danh hiệu "tứ trụ triều đình" do các thế hệ học trò, đồng nghiệp dành cho ông và ba người bạn đồng khoa.
Cũng những tư liệu ấy, con số ấy, sự kiện ấy, nhân vật ấy nhưng dưới ngòi bút của ông tất cả dường như sống động và cuốn hút hơn với một văn phong nhẹ nhàng mà vững chãi. Có lẽ chất văn đã thấm sâu trong tâm hồn ông từ thời niên thiếu và vô hình làm nên một dòng chảy hợp với dòng sử học của "cây cột cái, cây đại thụ" Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội một thời.
Những trang viết của ông về các nhà thơ - sĩ phu yêu nước như Nguyễn Quang Bích (tác giả "Ngư phong thi tập"), Nguyễn Xuân Ôn (tác giả "Ngọc Đường thi văn tập")... khiến người nghiên cứu văn học chuyên nghiệp không khỏi ngỡ ngàng trước cái nhìn tinh tế và sắc sảo đến thế, cả trong văn chương và sử học. Nhận định của thầy về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... không chỉ có ý nghĩa với sử học mà còn có tính gợi mở, định hướng cho người làm văn học sử về giai đoạn phức tạp và đầy biến động này.
Chính sự nhạy cảm và uyên bác trong lĩnh vực Văn học, Sử học đã nâng thầy lên địa vị của một trong số ít chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam cận đại - như đánh giá của các học giả trong và ngoài nước.
Đã có nhiều lúc tôi băn khoăn tự hỏi: "Không rõ sức mạnh nào đã nâng đỡ GS. Đinh Xuân Lâm trong suốt bao năm tháng qua mà giờ đây trong mắt học trò, đồng nghiệp ông vẫn là "cỗ máy cái" của Bộ môn Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại?" Ông cười, một nụ cười sảng khoái như không, và đằng sau đôi mắt tinh anh của ông chứa đựng sự thanh thản như ông từng tâm sự: "Cả đời tôi, suốt những năm qua, dù trải bao kỷ niệm buồn vui nhưng không có điều gì khiến tôi phải băn khoăn, ân hận".
GS. Đinh Xuân Lâm quan tâm đặc biệt tới học trò, một sự quan tâm không điều kiện, tất cả vì sự tiến bộ của lớp trẻ. Từ trong giọng nói đôn hậu của thầy, học trò nhận thấy sự gần gũi của một người anh, người cha và người ông đáng kính. Trên từng bước đi của họ, thầy luôn dõi theo với một tấm lòng bao dung, nhân hậu mà nghiêm khắc.
Bao thế hệ trưởng thành từ Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN) vẫn còn nhớ mãi những trang bản thảo khoá luận, luận văn rồi luận án được thầy ân cần, tỉ mỉ chữa và góp ý bằng một nét chữ chân phương, to, rõ ràng đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Chính họ, phần nào đã trưởng thành từ nét bút ấy và không bao giờ quên những lời nhắc nhở, động viên, khích lệ của thầy, để luôn tâm niệm, phấn đấu sao cho xứng đáng với thầy, xứng đáng với sự quan tâm dìu dắt của thầy.
Với những đóng góp to lớn đó trong sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy, GS. Đinh Xuân Lâm đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Ba và hạng Nhất, Huy chương Vì thế hệ trẻ...
Năm 1990, GS. Đinh Xuân Lâm nghỉ hưu, nhưng từ đó đến nay ông vẫn tiếp tục công việc của mình với độ chín của một nhà khoa học đầu ngành. Thời gian rảnh rỗi, ông đi thăm bè bạn và học trò như thuở trước và giúp đỡ các tỉnh soạn địa chí địa phương.
Con người ông là thế, ân tình, ân nghĩa từ trong cách nghĩ đến việc làm. Sự lớn lao của ông không chỉ ở trong tảng nền tri thức mà còn toát lên từ tình cảm, nhân cách làm người. Ông vẫn là cây lớn sừng sững xanh tươi và là tấm gương phấn đấu không ngừng cho lớp trẻ noi theo. Đến đâu, về đâu ông cũng tìm được hơi ấm gia đình từ những đứa con tinh thần mà ông đào tạo, dẫn dắt.
Trần Nho Thìn - Phạm Văn Hưng*
(*) Bài viết được đăng tải trên website kỷ niệm 100 năm Đại học lập đại học Đông Dương - tiền thân của ĐHQGHN với tiêu đề: "GS Đinh Xuân Lâm - Cây đời xanh mãi". VietNamNet đã lược bỏ một số đoạn trong bài viết gốc. Tiêu đề mới do tòa soạn VietNamNet đặt.