- Dưới đây là gợi ý giải đề thi tốt nghiệp THPT môn Văn của cô giáo Phạm Thị Thanh - Trung Học Phổ Thông Vĩnh Viễn, TP.HCM.
TIN LIÊN QUAN
Lộ đề môn Văn và Địa là tin đồn?
Kết thúc thi Văn: Chưa có thi sinh vi phạm
Thí sinh tự tin trước giờ thi Văn
I. Phần chung cho tất cả thí sinh (5,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Trong đoạn cuối truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật
nghệ sĩ Phùng mỗi khi ngắm kĩ và nhìn lâu hơn tấm ảnh do mình chụp thường thấy
hiện lên những hình ảnh :
* Màu hồng hồng của ánh sương mai .
* Người đàn bà làng chài bước ra khỏi tấm ảnh.
Những hình ảnh này mang ý nghĩa :
* Cảnh thiên nhiên đẹp - Hình ảnh con người trong bức tranh nghệ thuật: thấp
thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng
vị tha, đức hy sinh.
* Nghệ thuật gắn bó với cuộc sống
Câu 2 (3,0 điểm)
– Học sinh phải biết kết hợp nhiều thao tác để thực hiện bài nghị luận xã hội về
một quan niệm sống.
– Có thể trình bày nhiều cách khác nhau, nhưng cần đạt được những nội dung sau:\
* Đặt vấn đề:
_ Quá khứ đã trôi qua, mọi công việc của hiện tại đều hướng tới tương lai.
_ Con đường đi đến tương lai có nhiều ngả rẻ, mọi người phải tự chọn cho mình
một lối đi đúng để không hối tiếc.
* Khai thác vấn đề :
a. Giải thích:
– Ngả đường: những ngả rẻ trên đường đi. Ý nói: có nhiều mục đích, nghề nghiệp
và lý tưởng mà con người cần phải lựa chọn.
_ Chỉ có bản thân mỗi người mới có thể lựa chọn con đường đúng cho mình chứ
không phải ai khác. Sau khi chọn lựa, cố gắng đừng hối tiếc, đừng đổ thừa cho
hoàn cảnh và đừng oán trời, đừng trách người.
b. Bình luận:
_ Khi đã lựa chọn một con đường mà mình nghĩ là đúng thì cần phải cố gắng hết
sức để hoàn thành mục đích của mình. Con người có thể thích rất nhiều thứ nhưng
nếu thiếu nỗ lực và cố gắng thì không đạt được mục đích và phải bỏ dở dang con
đường mình đã chọn.
_ Phải cân nhắc thật kĩ trước khi chọn lựa để chắc chắn rằng con đường mình chọn
là đúng.
_ Phải tin vào bản thân, không dao động trước dư luận, đừng đứng núi này trông
núi nọ.
_ Con đường đến vinh quang nào cũng đầy rẫy khó khăn và chông gai. Do đó, sau
khi đã chọn đừng nản chí khi thất bại.
Dẫn chứng: có những học sinh bỏ qua năng khiếu riêng tư của mình, nghe lời cha
mẹ hoặc bạn bè chọn cho mình con đường không phù hợp với khả năng.
c. Phê phán:
_ Những người không biết tự chọn cho mình con đường đúng đắn thường dẫn đến
những thất bại, sai lầm trong cuộc đời và nhận lấy nhiều đau khổ.
_ Tuy nhiên vẫn có những người nghe theo sự chọn lựa của bố mẹ và thầy cô mà vẫn
thành công
* Liên hệ bản thân – rút ra bài học phấn đấu
_ Ai cũng phải bối rối trước quá nhiều ngả đường để lựa chọn.
_ Do đó, việc chính mình chọn một con đường đúng là điều vô cùng quan trọng và
có ý nghĩa lớn trong cuộc đời mỗi con người
II. Phần riêng - Phần tự chọn (5,0 điểm)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu 3.a hoặc câu 3.b)
Câu 3.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Yêu cầu về kỹ năng :
- Nắm phương pháp làm bài nghị luận văn học.
- Bố cục và hệ thống ý rõ ràng.
- Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận, nắm vững cách phân tích thơ
trữ tình.
- Văn trôi chảy không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức :
- Trên cơ sở hiểu biết về Quang Dũng và bài thơ "Tây Tiến", học sinh biết chọn
và phân tích những chi tiết tiêu biểu để làm rõ vẻ đẹp của đoạn thơ.
- Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được những
ý cơ bản sau:
Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con
sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân
yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp
một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của
tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống
Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.
“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt –
Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của
“đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.
Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã
thương yêu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó
là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi
người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu
thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan
rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương
nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp
của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau
tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ
vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn
cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm
đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong
sương mù giữa núi rừng trùng điệp:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến
phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như
dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian
khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm
thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của
người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất
thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí
và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào
cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như
để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại
xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ
được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, hình
tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện
một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt
bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những
người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm
nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà
dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng
cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa
lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại
ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu
người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn
rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền
Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi
vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng
can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía
trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng
cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội
trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất
yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh
nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc
tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn
binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm
lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một
sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu
thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp,
hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài
“Tiếng hát con tàu”.
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ
hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên
nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan,
đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công, là kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế
hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá
Câu 3.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
a) Yêu cầu về kỹ năng :
- Nắm vững phương pháp làm văn nghị luận văn học
- Vận dụng khả năng đọc - hiểu văn bản để phân tích nhân vật trong một tác phẩm
tự sự.
- Kết cấu bài viết chặt chẽ, diễn đạt suôn sẽ, không mắc lỗi chính tả, dùng từ,
ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức :
- Trên cơ sở hiểu biết về Kim Lân và truyện ngắn "Vợ nhặt", học sinh biết chọn
và phân tích những chi tiết tiêu biểu để làm nổi bật hình tượng nhân vật Tràng.
- Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được những
ý cơ bản sau:
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật.
+ Phân tích đặc điểm nhân vật :
• Lai lịch : nhà nghèo, dân ngụ cư, kéo xe bò thuê, nạn nhân của nạn đói (1945).
• Ngoại hình : thô kệch, có tật vừa đi vừa lẩm bẩm …
• Hoàn cảnh, số phận : hai lần gặp gỡ vợ nhặt thật tình cờ rất tình cờ, thành vợ
thành chồng.
• Tính cách : tấm lòng nhân hậu, khao khát mái ấm gia đình, mong ước được đổi
đời, tin tưởng vào tương lai.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật :
• Diễn biến tâm lý nhân vật đặc sắc.
• Lựa chọn chi tiết tiêu biểu và ngôn ngữ gắn với đời sống.
Ý nghĩa của hình tượng nhân vật :
• Tiêu biểu cho người lao động nghèo trong nạn đói (1945).
• Phẩm chất nhân hậu, lạc quan, biết vươn lên trong cuộc sống.
+ Cảm nhận về tác giả, tác phẩm, nhân vật để rút bài học cho bản thân.
- Phan Thị Thanh
(Trung Học Phổ Thông Vĩnh Viễn, TP.HCM)