Việt Nam là một trong 5 nước được dự báo sẽ chịu nhiều ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn cầu, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng bị tổn thương nghiêm trọng nhất do nước biển dâng.

Hiểm hoạ nước biển dâng

BĐKH làm thay đổi chế độ và lượng mưa, làm các hiện tượng thời tiết cực đoan diễn ra với tần suất và cường độ ngày càng cao hơn, gia tăng hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn, đất và nước bị nhiễm phèn nghiêm trọng. Hiện tượng triều cường, nước biển dâng đang diễn ra ngày càng phức tạp tại các tỉnh/thành Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là TP HCM.

Theo kịch bản biến đổi khí hậu năm 2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có khoảng 39% diện tích, 35% dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long; trên 10% diện tích, 9% dân số vùng đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh; trên 2,5% diện tích, 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số TP.HCM bị ảnh hưởng trực tiếp.

{keywords}
Do tác động của biến đổi khí hậu, hiện tượng nước biển dâng cao sẽ ngày càng trầm trọng. Ảnh: Internet.

Đặc biệt, mực nước biển dâng gây xâm nhập mặn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với các vùng ven biển ở Việt Nam, trong đó các tỉnh ven biển Tây Nam bộ là khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất với 1,77 triệu ha đất bị nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, các dự báo cho thấy đến năm 2100, vựa lúa này có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng do nước biển dâng.

Giải pháp thích ứng


Theo Ths.Nguyễn Văn Huy - Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, để ứng phó, thích ứng với việc nước biển dâng cao, kinh nghiệm các nước đã chỉ ra 3 nhóm biện pháp thích ứng đó là Bảo vệ, Thích nghi và Rút lui.

Cụ thể, các biện pháp bảo vệ bao gồm giải pháp bảo vệ “cứng” và bảo vệ “mềm”. Các giải pháp bảo vệ cứng chú trọng đến các can thiệp vật lý, giải pháp kĩ thuật công trình xây dựng cơ sở hạ tầng như xây dựng tường biển, tôn cao các tuyến đê, kè sông, kè biển, xây dựng đập ngăn nước mặn hoặc kênh mương để kiểm soát lũ lụt…Còn các biện pháp bảo vệ mềm chú trọng các giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái như tăng cường trồng rừng phòng hộ ven biển, đầu tư vào đất ngập nước, bổ sung đất cho các bãi biển, cải tạo các cồn cát ven biển, trồng rừng ngập mặn…

Thứ 2 là các biện pháp thích nghi. Các biện pháp này nhấn mạnh đến việc đầu tư cải tạo cơ sở hạ tầng, chuyển đổi tập quán canh tác, chú trọng đến việc điều chỉnh các chính sách quản lý bao gồm những phương pháp quy hoạch đón đầu, thay đổi các tiêu chuẩn xây dựng, sử dụng đất, các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường... nhằm giảm thiểu tính dễ tổn thương, tăng cường khả năng thích nghi, sống chung với lũ của cộng đồng trước tác động của BĐKH và nước biển dâng.

Phương án cuối cùng khi mực nước biển dâng lên mà không có điều kiện cơ sở vật chất để ứng phó là biện pháp di dời, rút lui vào sâu trong lục địa. Đây là phương án né tránh tác động của việc nước biển dâng bằng tái định cư, di dời nhà cửa, cơ sở hạ tầng ra khỏi vùng có nguy cơ bị đe doạ bị ngập nước. Phương án này bao gồm cả việc di dân từ vùng đất ngập nước vào sâu trong nội địa.

Theo Ths. Nguyễn Văn Huy, với 3 nhóm giải pháp này, nhìn chung những lựa chọn thích ứng có thể rất đa dạng, rõ ràng tùy thuộc vào các chính sách ưu tiên, mức độ tác động, tình hình thực tế về kinh tế, xã hội và các nguồn lực khác nhau mà tại nước ta, ở mỗi địa phương có thể có những cách lựa chọn giải pháp cụ thể một hoặc hai hoặc kết hợp cả ba để giải quyết tối ưu vấn đề thích ứng với nước biển dâng.

Theo các nhà chuyên muôn, muốn ngăn chặn hiện tượng nước biển dâng, ngay từ bây giờ chúng ta phải đẩy mạnh sử dụng các công nghệ sản xuất sạch, khai thác năng lượng sạch. Bên cạnh đó, cần có nhưng công trình nghiên cứu về dải biển ven bờ để biết chính xác vùng nào chịu ảnh hưởng trực tiếp của nước biển dâng, để khi hoạch định các chương trình phát triển vùng ven bờ có biện pháp phòng tránh.

Bên cạnh 3 biện pháp thích ứng, để đối phó với BĐKH và nước biển dâng, ngoài các giải pháp xây dựng những công trình để giảm nhẹ thiên tai, ngăn mặn, trữ ngọt, các địa phương cần phổ biến kiến thức về BĐKH, nâng cao tính thích ứng của người dân với các tác động của BĐKH. Mặt khác, cần tập trung tăng độ che phủ rừng đầu nguồn, trồng cây chắn sóng khu vực cửa sông, ven biển; xây dựng các khu vực tránh thiên tai; đồng thời triển khai các chương trình nghiên cứu chuyển giao kỹ năng sản xuất phù hợp, thích ứng với BĐKH như: canh tác lúa ở vùng nhiễm mặn, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi...

M.M (tổng hợp)