Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2016 tại 12 tỉnh cho thấy sự cải thiện về điều kiện sống. Các hộ nghèo nhận được trợ giúp tích cực về tín dụng, đất đai, kỹ thuật... để không bị bỏ lại phía sau.
Báo cáo “Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam qua kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2016 tại 12 tỉnh” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương công bố sáng 7/11. Báo cáo dựa trên mẫu điều tra 2.669 hộ gia đình ở các vùng nông thôn thuộc 12 tỉnh của Việt Nam gồm: Lào Cai, Phú Thọ, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hoà, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Long An…
Dự án điều tra hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2016 tại 12 tỉnh nghiên cứu các vấn đề về một số vùng và một số nhóm bị bỏ lại phía sau; hộ gia đình đang được hưởng lợi đồng đều từ sự phát triển kinh tế cung và một số vùng cần thêm nguồn lực hoặc đổi mới chính sách.
Kết quả điều tra phối hợp về đói nghèo và hạnh phúc cho thấy tỉ lệ nghèo đói tăng do thay đổi về cách phân loại trong đó có sự khác biệt tương đối lớn về kết quả giáo dục và y tế giữa các vùng; ngoài ra sự chênh lệch giữa các nhóm dân tộc vẫn tồn tại dai dẳng; Tuy nhiên, tại các tỉnh điều tra cho thấy có một số cải thiện về điều kiện sống.
Đại diện nhóm nghiên cứu đánh giá, những năm gần đây, Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực nhằm tăng cường quyền sở hữu đối với đất đai và khuyến khích đầu tư. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt rõ ràng giữa miền Bắc và miền Nam. Nghèo đói có mối tương quan chặt chẽ đối với tình trạng không có đất. Đặc biệt nghèo không tương quan với tình trạng không có ruộng đất.
Báo cáo cho thấy cách tiếp cận tín dụng chính thức là một công cụ quan trọng giúp xoá đói, giảm nghèo. Tuy vậy, các hộ nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất thì thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận với tín dụng. Theo khảo sát, có khoảng trên 28% hộ gia đình có ít nhất một khoản vay, trong khi có tới hơn 71% hộ không có khoản vay nào. Trong số 768 hộ gia đình có ít nhất 1 khoản vay, có 145 hộ có khoản vay thứ 2 và 34 hộ có khoản vay thứ 3.
Ngoài ra, vẫn có sự chênh lệch giữa các vùng trong việc tiếp cận tín dụng, tỷ lệ hộ có các khoản vay mà có chủ hộ không biết đọc, biết viết tăng lên. Tỷ lệ hộ thiểu số tiếp cận tín dụng tăng lên, bao gồm cả tín dụng chính thức. Nhóm hộ nghèo nhất có sự gia tăng về tiếp cận tín dụng trong khi các hộ thuộc nhóm giàu thứ 2 lại giảm.
Để đảm bảo những thành tựu về kinh tế được chia sẻ đồng đều, nhóm UNU-WIDER cho rằng, các nhà hoạch định chính sách cần đặt trọng tâm chính vào việc thu hẹp các khoảng cách chênh lệch trong những năm tới. Việc giải quyết những bất bình đẳng này phải đảm bảo rằng nhóm hộ nghèo và dễ bị tổn thương nhất không bị bỏ lại phía sau và tiếp tục là những vấn đề trọng tâm.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, việc cho vay vốn không chỉ để giải quyết một số sự vụ xóa đói giảm nghèo. Mục đích của việc vay vốn cao hơn là để tạo ra sức sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp với sự chuyên môn hóa. Chính vì thế, nghề làm nông nghiệp phải được công nhận như những nghề nghiệp khác. Muốn làm được như vậy, nông nghiệp phải được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa giúp đỡ những hộ nông dân có năng lực phát triển thành các hộ sản xuất lớn, khi đó mới phát triển được nhu cầu đầu tư vốn vào nông nghiệp.
Mặt khác, việc cho người nông dân vay vốn theo hình thức xóa đói giảm nghèo vẫn cần tiếp tục áp dụng. Nhưng để đảm bảo chính sách hướng đến đúng đối tượng thụ hưởng, chính sách tiếp cận tín dụng được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội như: Hội Nông dân, Hợp tác xã, Hội Phụ nữ…
N.H - Thùy Vân