Ngày 3/10, tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York (Mỹ), Ủy ban Các vấn đề xã hội, nhân đạo và văn hóa của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 78 đã thảo luận vấn đề thúc đẩy tiến bộ của phụ nữ.

Tại phiên họp, đa số các nước nhận định việc thúc đẩy vai trò và sự tham gia của phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đang có dấu hiệu thụt lùi. Phụ nữ vẫn là đối tượng chịu ảnh hưởng lớn của các khủng hoảng đan xen và đa chiều hiện nay.

Phát biểu tại phiên thảo luận, Tham tán Công sứ Lê Thị Minh Thoa, Phó Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, chia sẻ nhận định cho rằng, phụ nữ ở nhiều nơi trên thế giới đang phải đối mặt với các vấn đề về sức khỏe, mất hoặc giảm thu nhập, tụt hậu về tiếp cận tri thức, các cơ hội việc làm và hội nhập, là nạn nhân của bạo lực giới.

Trong khi đó, chuyển đổi số và các xu thế kinh tế toàn cầu một mặt vừa là giải pháp, mặt khác đặt ra nguy cơ làm trầm trọng các tổn thương đối với phụ nữ.

Về khuyến nghị giải pháp, đại diện Việt Nam cho rằng, cần thúc đẩy hợp tác quốc tế để hỗ trợ các nước thực hiện các cam kết quốc tế bảo đảm sự tham gia đầy đủ, bình đẳng và có ý nghĩa của phụ nữ và trẻ em gái trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ngăn ngừa bạo lực và phân biệt đối xử.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, cũng cần tập trung nâng cao chất lượng lao động nữ về kỹ năng số, thúc đẩy vai trò của phụ nữ trong phát triển nền kinh tế số.

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ và trẻ em gái phát triển sự nghiệp trong các ngành khoa học và công nghệ, bảo vệ các quyền của phụ nữ trong môi trường số.

Nhân dịp này, đại diện Việt Nam nêu bật những kết quả và thành tựu Việt Nam đạt được trong bảo đảm quyền của phụ nữ và bình đẳng giới trong hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và chiến lược phát triển.

Cụ thể, thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều chương trình, chính sách quan tâm đến phụ nữ vùng dân tộc thiểu số; tiêu biểu là trong các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Đặc biệt, dành riêng Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” trong Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn 1: năm 2021 – 2025 nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến giới; chăm lo, giải quyết một số vấn đề cấp thiết đối phụ nữ và trẻ em gái tại các xã và thôn đặc biệt khó khăn, ưu tiên phụ nữ và trẻ em gái là người dân tộc thiểu số trong các hộ nghèo, cận nghèo, nạn nhân bị mua bán, bị bạo lực gia đình, bị xâm hại tình dục, di cư lao động không an toàn/lấy chồng nước ngoài trở về, người khuyết tật.

Gần 2 năm triển khai dự án, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan. 

Để làm rõ hơn vấn đề này, Báo điện tử VietNamNet thực hiện Tọa đàm: “Nâng cao quyền năng cho phụ nữ dân tộc thiểu số”. Xin trân trọng giới thiệu hai vị khách mời:

Bà Bế Thị Hồng Vân, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách dân tộc, Ủy ban Dân tộc.

Bà Lò Thị Thu Thủy, Trưởng Ban Dân tộc - Tôn giáo, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Mời quý độc giả theo dõi video tại đây:

Những rào cản từ định kiến và bất bình đẳng giới 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa bà Lò Thị Thu Thủy, mục tiêu của bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tiến tới bình đẳng giới thực chất, thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác giữa phụ nữ và nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Bà đánh giá như thế nào về thực trạng bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nước ta hiện nay? 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có tiếng nói, văn hóa, chữ viết riêng. Đồng bào dân tộc chủ yếu cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, giao thông đi lại khó khăn. 

Nhiều gia đình hiện nay vẫn sống trong tình trạng thiếu thốn về mặt kinh tế và nhiều người, đặc biệt là phụ nữ không biết tiếng phổ thông. Bên cạnh đó, một số phong tục tập quán, thói quen lâu đời của bà con cũng là một trong những nguyên nhân gây nên hạn chế để đạt được mục tiêu về bình đẳng giới mà Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đã đề ra. 

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực và những biện pháp để tăng cường, thúc đẩy bình đẳng giới trên các lĩnh vực; đặc biệt là cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi. 

Nhiều văn bản pháp luật, chính sách đã được ra đời như: Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân gia đình cũng nhằm đảm bảo tiếng nói và sự tham gia thực chất của phụ nữ và trẻ em trong các hoạt động, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, việc tham gia thụ hưởng bình đẳng của nam và nữ, trong đó có phụ nữ dân tộc thiểu số. 

Nhờ đó, phụ nữ dân tộc thiểu số đã tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, được học tập, bồi dưỡng kỹ năng, nâng cao trình độ, thu nhập cũng được nâng lên, độc lập tự chủ về kinh tế hoặc tham gia vào ngành nghề nhiều hơn, có tiếng nói hơn trong gia đình và xã hội. 

Tuy nhiên, thực tế những nỗ lực để thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập. Phụ nữ, trẻ em gái vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là đối tượng yếu thế và gặp nhiều khó khăn hơn. 

Những lý do khách quan, chủ quan như chúng ta đã nói ở trên là cản trở rất lớn cho mục tiêu bình đẳng giới đã đặt ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, việc làm, lao động xã hội… Phụ nữ và trẻ em gái vùng dân tộc thiểu số đều gặp thiệt thòi nhiều hơn về mặt tiếp cận và thụ hưởng. 

Những vấn đề đó hiện nay đã và đang đặt ra, đòi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa của các ban ngành đoàn thể để đạt được mục tiêu đã đề ra. 

W-phu-nu-1.jpg
Từ trái qua: Nhà báo Diệu Bình, bà Lò Thị Thu Thủy và bà Bế Thị Hồng Vân.

Nhà báo Diệu Bình: Thưa hai vị khách mời, đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam: đói nghèo, lạc hậu, hủ tục, định kiến giới… hay nguyên nhân nào khác? 

Bà Bế Thị Hồng Vân: Những nguyên nhân vừa nêu có thể là nguyên nhân khách quan, khái quát cho tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đi sâu hơn nữa vào vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ thấy một số nguyên nhân mang tính đặc thù đối với vấn đề này. Có thể nhìn nhận các nguyên nhân đó đến từ các khía cạnh sau:

Thứ nhất: Nhóm nguyên nhân từ xã hội. Bên cạnh những định kiến giới, khuôn mẫu giới, người dân tộc thiểu số còn có định kiến dân tộc. Chính những định kiến này đã đưa đến thiếu niềm tin, thiếu sự quan tâm cũng như ủng hộ của xã hội đối với phụ nữ dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế khác. 

Thứ hai: Nhóm nguyên nhân từ gia đình. Các thành viên thiếu sự chia sẻ các công việc gia đình cũng như là thiếu sự ủng hộ của các thành viên khi phụ nữ dân tộc thiểu số muốn tham gia vào phát triển kinh tế cũng như công tác xã hội. Bên cạnh đó là sự hạn chế của cơ hội tiếp cận của phụ nữ dân tộc với các nguồn lực về tài chính, về cơ sở vật chất và dịch vụ xã hội. 

Thứ ba: Nhóm nguyên nhân từ bản thân. Do tiếng phổ thông không thành thạo, do hạn chế về trình độ học vấn, khả năng tiếp cận các khóa đào tạo, tập huấn về chuyên môn kỹ thuật, thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như kỹ năng cơ bản về giao tiếp, về tiếp cận thông tin. 

Một vấn đề nữa là chính bản thân chị em phụ nữ dân tộc còn mang mặc cảm, tự ti, thiếu động lực vươn lên trong cuộc sống. 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Bất bình đẳng giới diễn ra ở nhiều lĩnh vực của cuộc sống và có gốc rễ ngay từ trong gia đình. Người phụ nữ bị gắn chặt với vai trò gia đình, họ bị mất nhiều cơ hội trong học tập, trong giáo dục, trong lao động việc làm, tham gia các hoạt động xã hội. 

Các con số, số liệu thống kê cho thấy, phụ nữ dành thời gian cho việc nhà nhiều hơn. Phụ nữ dân tộc thiểu số còn vất vả hơn, quyền ra quyết định trong gia đình, quyền sở hữu tài sản, sự thiên vị giới tính, trọng nam - khinh nữ vẫn diễn ra, khiến cho tình trạng bất bình đẳng giới rất phổ biến.

Bất bình đẳng giới còn xuất phát ngay từ suy nghĩ của người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số. Bản thân những người phụ nữ đó có những tư tưởng cam chịu, lệ thuộc, không có ý chí độc lập, tự chủ vươn lên.

Mặc dù hiện nay, một số chị em có ý định thay đổi nhưng họ phải thực sự là những người dũng cảm mới có thể vươn lên, thay đổi được. Tuy nhiên, đa số vẫn còn e ngại, chưa vượt qua được dư luận xã hội, cái nhìn của cộng đồng khi tham gia những hoạt động mà không quen thuộc với lối sống, truyền thống hàng ngày. Đó là những rào cản rất lớn, nguyên nhân khiến phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn những định kiến và bất bình đẳng.

W-a58i3063-1.jpg
Bất bình đẳng giới diễn ra ở nhiều lĩnh vực của cuộc sống và có gốc rễ ngay từ trong gia đình.

Nhà báo Diệu Bình: Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Bạo lực giới ở vùng dân tộc thiểu số thường xảy ra dưới nhiều hình thức, biểu hiện như bạo lực trong gia đình, tảo hôn, ép hôn, mua bán người, lạm dụng tình dục trẻ em, mại dâm cưỡng bức, quấy rối tình dục, nạo phá thai để lựa chọn giới tính thai nhi… 

Xin hai vị khách mời cho biết quan điểm về vấn đề này? Bạo lực giới tác động tiêu cực thế nào đến công tác bình đẳng giới cũng như sự phát triển của Việt Nam?

Bà Lò Thị Thu Thủy: Bạo lực trên cơ sở giới là biểu hiện rất rõ ràng của bất bình đẳng giới. Do quan hệ bất bình đẳng giới giữa nam và nữ đã “ăn sâu, bén rễ” từ rất nhiều đời nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên thế giới. 

Tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam vẫn ở mức cao, chưa được giải quyết hiệu quả. Bạo lực trên cơ sở giới, đặc biệt bạo lực với phụ nữ và trẻ em vẫn tiếp tục là vấn đề nghiêm trọng. Nguy cơ tiềm tàng rất nhiều, gây đến sự bất ổn định, sự bền vững của gia đình cũng như trật tự an toàn xã hội. 

Nhiều vụ bạo lực gia đình liên quan đến lạm dụng trẻ em, lạm dụng tình dục đối với phụ nữ và trẻ em vẫn đang diễn ra hàng ngày. Những hậu quả nghiêm trọng của nó để lại cho gia đình và xã hội có thể đếm được nhưng hậu quả về mặt tâm lý cho nạn nhân bị bạo lực gia đình rất khó đong đếm. Điều đó sẽ ám ảnh, đi theo đến suốt đời những nạn nhân chịu bạo lực, tổn thương này. 

Nguyên nhân của bạo lực bắt nguồn từ bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ, tư tưởng gia trưởng, đề cao vai trò của nam giới trong xã hội châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Do vậy, phụ nữ là đối tượng trực tiếp phải chịu những tổn thương này.

Trong cuộc sống gia đình, bạo lực trên cơ sở giới đôi khi rất khó để nhận biết do bị che giấu bởi những mong đợi truyền thống, coi đó là việc trong gia đình. Những quan niệm về vai trò của người nam và người nữ không chỉ là người nữ giới bị tổn thương về mặt tâm lý, xã hội mà những mong đợi với vai trò của nam giới về trụ cột kinh tế, kiếm tiền cho gia đình cũng là những vấn đề liên quan đến bất bình đẳng giới.

Tất cả những điều này làm cho bạo lực trên cơ sở giới hiện nay đã và đang tiếp diễn. Cần có những biện pháp truyền thông hiệu quả, rộng rãi hơn về những hậu quả của những bạo lực giới để mọi người cùng nhận biết rõ hơn và có ý thức hơn về phòng chống bạo lực trên cơ sở giới ở các mặt trận thông tin tuyên truyền cũng như xã hội.

Bà Bế Thị Hồng Vân: Khi nói đến bạo lực giới ở vùng dân tộc thiểu số, vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống được đề cập đến đầu tiên. Đây là vấn đề xã hội, tồn tại khá lâu trong một nhóm, một số các dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số rất ít người. 

Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, gây ảnh hưởng đến suy giảm chất lượng nòi giống cũng như là chất lượng dân số và nguồn lực dân tộc thiểu số. 

Hiện nay, hiện tượng tảo hôn vẫn tập trung ở một số dân tộc thiểu số có dân số rất ít người. Tình trạng hôn nhân cận huyết thống phổ biến khá nhiều ở trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.

Vấn đề buôn bán phụ nữ và trẻ em gái là vấn đề khá nhức nhối trong cộng đồng dân tộc thiểu số, mặc dù hiện nay các cấp chính quyền đã quan tâm tích cực triển khai các biện pháp phòng chống tình trạng này. 

Tuy nhiên, lợi dụng việc phụ nữ dân tộc thường thiếu tự tin, ít giao tiếp, kiến thức và kỹ năng xã hội ít nên những kẻ buôn người đã lợi dụng và lôi kéo và biến phụ nữ, trẻ em gái dân tộc thiểu số thành nạn nhân của buôn bán người, xâm hại tình dục, lấy chồng nước ngoài… gây nên sự bất bình đẳng ở xã hội cũng như các tỉnh biên giới của quốc gia. 

Ngoài ra, hành vi bạo lực gia đình vẫn tồn tại trong khi nhận thức của người dân về bạo lực gia đình, nhất là với bạo lực phụ nữ vẫn còn hạn chế. Người dân cho rằng, chỉ những hành vi bạo lực về thể chất mới là hành vi vi phạm. Trong khi những hành vi kiểm soát xã hội, hay khía cạnh của bạo lực tình dục như từ chối hay ngăn cản sử dụng các biện pháp tránh thai người dân vẫn chưa nhận thức được đầy đủ.

W-a58i3081-2.jpg
Khi nói đến bạo lực giới ở vùng dân tộc thiểu số, vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống được đề cập đến đầu tiên.

Nhà báo Diệu Bình: Năm 2022, Việt Nam bắt đầu triển khai Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, thiểu số và miền núi. 

Xin bà Lò Thị Thu Thủy khái quát về những nội dung của dự án? Sự cần thiết của Dự án 08 với công tác bình đẳng giới, nâng cao nhận thức cho phụ nữ, trẻ em gái vùng dân tộc thiểu số với việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này ra sao? Đến thời điểm này, công tác tổ chức thực hiện Dự án 8 đã đạt kết quả thế nào? 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Dự án 8 về bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ, trẻ em là một trong những dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. 

Đây là lần đầu tiêu có một chương trình quốc gia dành riêng một dự án chuyên biệt về giới và giao cho một cơ quan, đoàn thể triển khai, thực hiện. Với trách nhiệm của mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành được giao nhiệm vụ, đề xuất, triển khai thực hiện dự án với 4 nội dung hoạt động, 16 nhóm hoạt động cụ thể và 8 chỉ tiêu cốt lõi. 

Trong đó, nhiều hoạt động can thiệp theo chức năng của Hội tập trung vào tuyên truyền, vận động thay đổi “nếp nghĩ, cách làm”, xóa bỏ định kiến giới trong gia đình và cộng đồng; hỗ trợ phụ nữ chăm sóc sức khỏe và làm mẹ an toàn; giải quyết các vấn đề cấp thiết ở vùng dân tộc thiểu số như tảo hôn, hôn nhân cận huyết, phòng chống mua bán người, di cư lao động thiếu an toàn.

Một trong những hoạt động nữa của Hội đó là đảm bảo tiếng nói và sự tham gia thực chất của phụ nữ và trẻ em trong các hoạt động, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi thông qua các hoạt động như: giám sát, phản biện xã hội, thực hiện các chính sách ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, tổ chức các hoạt động cho trẻ em tại các trường phổ thông thông qua các mô hình. Nâng cao năng lực thực hiện lồng ghép giới cho cán bộ trong hệ thống chính trị, đặc biệt là nâng cao năng lực cho cán bộ cấp thôn, già làng, trưởng bản, người có uy tín.

Một nhiệm vụ được chương trình giao cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện đó là giám sát đánh giá việc thực hiện bình đẳng giới trong toàn bộ chương trình. 

Toàn bộ những hoạt động này đang được Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam triển khai thực hiện, đặc biệt là những hoạt động liên quan đến hướng dẫn, xây dựng các văn bản hướng dẫn, tài liệu hướng dẫn và tập huấn cho các đội ngũ triển khai thực hiện, ở các bộ ngành và các địa phương để Dự án 8 có thể thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. 

Có thể nói rằng, Dự án 8 là một trong những dự án có hệ thống hướng dẫn, tài liệu được cập nhật theo tiến độ nhanh và có những tài liệu đã chuyển tới các thôn bản, đặc biệt là những tổ truyền thông cộng đồng được thành lập trong dự án.

Tính đến thời điểm này, các hoạt động của Dự án 8 đã bám sát mục tiêu đề ra. Các mô hình hoạt động triển khai cũng được sự ghi nhận, ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương. 

Hiện nay, chúng tôi thành lập được 477/1000 địa chỉ tin cậy, đạt khoảng 48% chỉ tiêu đã đề ra trong giai đoạn 1. Địa chỉ tin cậy là dành cho những nạn nhân bị bạo lực gia đình ở cấp xã thôn. Khi có vấn đề xảy ra, họ có nơi để tạm lánh, tạm trú trong quá trình các cơ quan chức năng giải quyết các vấn đề liên quan đến bạo lực xảy ra với họ. 

Chúng tôi cũng thành lập và duy trì được 550 câu lạc bộ thủ lĩnh của sự thay đổi. Đây là câu lạc bộ thành lập ở các trường học dành cho trẻ em trung học cơ sở ở địa bàn dân tộc thiểu số. Trong đó, thiết kế các hoạt động trang bị kiến thức về giới, giới tính, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình, phòng chống lạm dụng tình dục và tai nạn thương tích của trẻ em và rất nhiều nội dung. Các câu lạc bộ đã và đang hoạt động rất hiệu quả, hỗ trợ cho hoạt động liên quan đến sinh hoạt ngoại khóa, được Bộ Giáo dục và Đào tạo tham gia chỉ đạo, triển khai nhân rộng trên địa bàn cả nước. 

Thực tiễn cho thấy, vấn đề bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em gái, phụ nữ dân tộc thiểu số và trẻ em vùng dân tộc thiểu số tuy đã có những hiệu quả bước đầu nhưng vẫn có những bất cập xảy ra. 

Việc thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của phụ nữ, người dân trong cộng đồng, đặc biệt là đảm bảo tiếng nói và sự tham gia của phụ nữ, trẻ em trong các hoạt động cộng đồng được xác định là vấn đề quan trọng để thúc đẩy các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những rào cản đặt ra cho bản thân người phụ nữ khi tham gia các hoạt động của Hội Phụ nữ cũng khó giải quyết và cần sự tham gia của các bộ, ngành. Đặc biệt là vấn đề liên quan đến việc không nói tiếng phổ thông – một rào cản lớn trong việc tiếp cận các chương trình đối với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ ở lứa tuổi từ 35 tuổi trở lên. 

Đó là những vấn đề chúng tôi xác định cần phải tiếp cận để cùng các ban, ngành, đoàn thể địa phương thúc đẩy hơn nữa, để chị em phụ nữ được tiếp cận, hiểu được quyền lợi, trách nhiệm của mình khi tham gia chương trình cũng như là tham gia Dự án 8. Từ đó, họ sẽ có những đóng góp nhất định trong quá trình xây dựng, phát triển của bản thân, của gia đình, của địa phương. Tôi nghĩ rằng đây là cơ hội để thúc đẩy một cách mạnh mẽ và tạo được sự chuyển biến về chất để giải quyết những vấn đề căn bản của bất bình đẳng giới như định kiến giới. 

Chúng ta hy vọng trong thời gian tới, với sự nỗ lực của các ban ngành, các cấp chính quyền tiếp tục ủng hộ, đồng hành cùng Hội Phụ nữ trong việc triển khai, xây dựng, thực hiện Dự án 8. Đây là Dự án đặc biệt, cũng là chương trình mới, cách làm, cách triển khai còn rất nhiều khó khăn nhưng dần dần sẽ tạo nên sự chuyển biến tích cực.

W-a58i3130-1.jpg
Vấn đề bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, phụ nữ dân tộc thiểu số đã có hiệu quả bước đầu nhưng vẫn còn bất cập xảy ra. 

Truyền thông thay đổi “nếp nghĩ, cách làm”

Nhà báo Diệu Bình: Xoá bỏ các định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình và cộng đồng, những tập tục văn hoá có hại nhằm mục tiêu thay đổi nhận thức và hành động của toàn xã hội. Giải pháp nào hiệu quả cho vấn đề này, thưa bà Bế Thị Hồng Vân? 

Bà Bế Thị Hồng Vân: Những nguyên nhân gây bất bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số có những nguyên nhân mang tính đặc thù. Như vậy, chúng ta cũng cần có những giải pháp mang tính đặc thù. Đặc biệt là với công việc thay đổi nhận thức dẫn đến hành vi của cả xã hội không phải ngày một, ngày hai mà là quá trình. Theo tôi, có 3 vấn đề cần quan tâm.

Thứ nhất: Truyền thông nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý và cộng đồng là giải pháp căn bản, thường xuyên và lâu dài. Để có sự thống nhất về hành động, cần đa dạng hóa các hoạt động truyền thông, thông qua phương tiện thông tin đại chúng bằng tiếng dân tộc, truyền thông bằng ngôn ngữ địa phương hay các trình bày tiểu phẩm, xây dựng, tổ chức các lớp tập huấn… phù hợp với điều kiện, khả năng của người dân. 

Thứ hai: Có những thông điệp phù hợp để tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tốt trong cộng đồng về bình đẳng giới. Đồng thời cũng phê phán những khuôn mẫu lạc hậu. Ngoài ra, thường xuyên rà soát các nội dung truyền thông để đảm bảo các thông điệp truyền thông không mang định kiến giới. 

Nâng cao học vấn của người dân và giải quyết tình trạng tái mù chữ ở các địa phương, thu hút sự tham gia của nam giới và trẻ em trai trong hoạt động truyền thông về bình đẳng giới. 

Thực hiện bền bỉ các biện pháp, chính sách thúc đẩy giáo dục, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân cũng là vai trò rất quan trọng trong công tác bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng lồng ghép giới vào các chính sách phát triển kinh tế, xã hội cũng là đòn bẩy thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số. 

Thứ ba: Để làm được việc này, bên cạnh sự nhập cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị thì sự sắp xếp lại đội ngũ chuyên môn về bình đẳng giới cũng như chuyên môn về cơ chế phối hợp thực chất giữa các cơ quan trong việc triển khai, tiếp cận bình đẳng giới là hết sức cần thiết. 

W-a58i3095-2.jpg
Cần có những giải pháp mang tính đặc thù trong công tác bình đẳng giới.

Nhà báo Diệu Bình: Là một lực lượng lao động tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất, phụ nữ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở nông thôn, vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Tuy nhiên, họ cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình lao động sản xuất từ những định kiến về bình đẳng giới. Vậy những khó khăn, hạn chế này là gì, thưa hai vị khách mời? 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Thực tế cho thấy hiện nay, phụ nữ dân tộc thiểu số phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, rào cản trong việc thụ hưởng, tiếp cận thành quả của quá trình phát triển. Con số trong các báo cáo nghiên cứu, điều tra gần đây cho thấy, một số vấn đề giới vẫn ảnh hưởng lớn đến phụ nữ và trẻ em. Điều đó vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng trong vùng dân tộc thiểu số miền núi là nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết.

Tảo hôn, hôn nhân cận huyết về mặt tỷ lệ có giảm. Tuy nhiên, mức giảm chưa đều. Một số dân tộc có tình trạng tăng lên. Lao động nữ dân tộc thiểu số thường làm những công việc không ổn định, dễ bị tổn thương hơn so với các dân tộc khác. Khi kiếm được việc làm, việc làm có trả công thấp, phổ thông. Tỷ lệ phụ nữ sinh con ở cơ sở y tế vẫn còn thấp so với mặt bằng chung. 

Chúng tôi cũng xác định, phụ nữ dân tộc thiểu số thường có xu hướng lao động sớm, hoạt động sinh kế phụ thuộc nhiều vào đất đai nhưng lại thiếu cơ hội tiếp cận bình đẳng đến nguồn tài nguyên là đất đai và vốn. Bởi vì khi được phân đất, ví dụ như khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trước đây thông thường người đứng tên trên giấy tờ là nam giới (chủ hộ). Do không đứng tên trên giấy tờ đất đai nên việc tiếp cận nguồn vốn chính thức của họ cũng rất là yếu, vì họ không tài sản để thế chấp.

Họ có rất ít cơ hội để quyết định những vấn đề có ảnh hưởng đến cuộc sống, như trong mối quan hệ gia đình, nam giới vẫn đóng vai trò chủ đạo, vẫn là người ra quyết định quan trọng ở trong gia đình, liên quan đến tài sản, sinh kế.

Bên cạnh những định kiến truyền thống về vai trò của nam và nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số có trình độ học vấn không cao nên khi tiếp cận thị trường rất khó có cơ hội tiếp cận việc làm đươc trả công cao hoặc tiếp cận những vấn đề liên quan đến tài chính, sinh kế, thông tin. 

Do những rào cản đó, họ ít hưởng lợi từ các chương trình, chính sách, ít được tham gia các khóa tập huấn, năng cao năng lực hay đứng tên vay vốn tín dụng ưu đãi. Trong các chính sách hỗ trợ cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng ít khi đề cập đến vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong xây dựng, trong giám sát, đánh giá các chính sách.

Phụ nữ ít được tham gia vào các hoạt động đó cũng bởi vì bản thân họ có rào cản rất lớn là không biết tiếng phổ thông. Vì vậy, khi tham gia các hoạt động tập huấn, hoạt động cộng đồng, họ hạn chế hơn. Đa số phụ nữ cũng chưa nhận thức được đầy đủ giá trị của bản thân họ, chưa mạnh dạn vươn lên trong học tập cũng như phát triển sinh kế, tự tin làm việc giao tiếp để có những nguồn thu ổn định hơn.

Tuy nhiên, với kinh nghiệm của chúng tôi, khi tổ chức các hoạt động, phụ nữ dân tộc thiểu số không biết tiếng phổ thông phải khuyến khích họ tham gia, trao đổi bằng tiếng của dân tộc họ thì họ rất là tự tin, sôi nổi. Vai trò của người cán bộ khuyến khích họ tham gia, hiểu được trao đổi của họ bằng tiếng dân tộc thiểu số là quan trọng. Vì vậy, đòi hỏi công tác cán bộ ở nhiều địa phương cần chú ý đến vấn đề bố trí cán bộ là người dân tộc thiểu số, có thể triển khai được những chính sách đối với địa phương, đối với phụ nữ để họ hiểu và tiếp cận.

Tất cả những khó khăn, hạn chế này đã và đang diễn ra. Hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi cũng có những hoạt động nâng cao năng lực cán bộ là người dân tộc thiểu số. Hy vọng thời gian tới, những bất cập hạn chế sẽ giảm bớt, tạo điều kiện cho việc bình đẳng, thụ hưởng của các đối tượng ở trong địa bàn dân tộc thiểu số, trong đó có phụ nữ và trẻ em. 

Bà Bế Thị Hồng Vân: Theo tôi trong lĩnh vực này, phụ nữ dân tộc thiểu số có thể gặp 4 hạn chế như sau:

Thứ nhất: Phụ nữ dân tộc thiểu số gặp bất lợi hơn nam giới trong việc tiếp cận tín dụng chính thức để phát triển các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh, dịch vụ mặc dù phụ nữ dân tộc thiểu số đóng vai trò rất quan trọng trong các ngành nghề truyền thống ở vùng dân tộc thiểu số.

Theo số liệu tổng hợp những năm gần đây, tỷ lệ hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội chỉ đạt khoảng 16%, thấp hơn gần 5 lần so với tỷ lệ tương ứng, so với hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ.  Lý do của những khó khăn này là do không có tài sản thế chấp, thủ tục vay rườm rà, chính chị em phụ nữ không biết bắt đầu từ đâu.

Thứ hai: Người phụ nữ vào các vị trí nòng cốt của tổ nhóm sản xuất, hay là chuỗi giá trị thường gặp khó khăn và nhiều rào cản hơn so với nam giới dù yếu tố tham gia của phụ nữ trong chuỗi giá trị này có vai trò rất lớn trong việc thành công. Những rào cản về tài chính, gia đình, đào tạo chuyên môn cũng như là thiếu khả năng đương đầu với rủi ro…

Thứ ba: Lực lượng lao động nữ dân tộc thiểu số thường là nhóm yếu thế trong thị trường lao động. Nữ dân tộc thiểu số thường nằm trong nhóm không ổn định, dễ bị tổn thương nhiều hơn so với nam dân tộc thiểu số. Có khoảng 24/53 dân tộc thiểu số có tỷ lệ nữ làm việc trong các ngành nghề nông – lâm nghiệp chiếm tới 90%.

Tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số làm công việc ở gia đình, không tham gia vào công việc hưởng lương (lao động phổ thông) là 52%, cao gấp 2 lần so với tỷ lệ của nam giới và cao gấp 2,5 lần so với lao động của cả nước. Đây là nhóm công việc không ổn định, điều kiện lao động hạn chế hơn so với việc làm ở các khu vực khác và cũng không được tham gia vào bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc. 

Thứ tư: Phụ nữ dân tộc thiểu số thường gặp khó khăn trong dịch chuyển ngành nghề nông – lâm nghiệp sang tham gia vào tiếp cận các công việc hưởng lương ở các nhà máy trên địa phương hay các khu chế xuất ở trong nước hoặc là lao động nước ngoài và dẫn đến tình trạng tìm việc làm bất hợp pháp ở ngoài biên giới đối với một số nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số hoặc nhóm yếu thế.

Nhà báo Diệu Bình: Thưa hai vị khách mời, việc thay đổi "nếp nghĩ, cách làm", trao quyền năng kinh tế được xác định là một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy bình đẳng giới, giải quyết các vấn đề cấp thiết ở vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Để giải pháp này được thực hiện thực sự có hiệu quả, chúng ta cần có những hoạt động cụ thể nào?  

Bà Lò Thị Thu Thủy: Thay đổi nếp nghĩ là thay đổi từ nhận thức cũ sang nhận thức mới. Việc thay đổi cách làm trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang thực hiện với phương châm, hành động tạo thành thói quen và thói quen thì hình thành nếp nghĩ. 

Chúng ta phải thay đổi cách làm, cách triển khai trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số một cách kiên trì, kiên quyết với phương pháp "mưa dầm thấm lâu" làm gương, tạo được kết quả. Từ việc dễ đến việc khó, cầm tay chỉ việc… tạo được sự lan tỏa và phong trào rộng khắp ở trong vùng dân tộc thiểu số, từ đó bà con học nhau. 

Chúng tôi cũng chú trọng xây dựng mô hình điển hình, thu hút sự tham gia của già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn giáo tạo sự thi đua, phấn đấu và coi trọng công tác biểu dương, khen thưởng những tấm gương điển hình và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. 

Đối với các cấp Hội Phụ nữ, chúng tôi cũng chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho hội viên phụ nữ về vị trí, vai trò làm chủ về mặt kinh tế trong gia đình cũng như tham gia các hoạt động kinh tế tập thể. 

Ví dụ: Chúng tôi chủ động tư vấn, hỗ trợ thành lập và vận hành hoạt động của các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã do phụ nữ tham gia làm chủ và quản lý điều hành. Những tổ hợp tác, hợp tác xã đó gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với cơ cấu lao động địa phương là liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, hướng dẫn chị em kinh doanh bán sản phẩm trên các trang thương mại điện tử. Từ đó, thúc đẩy chị em, tạo việc làm cho lao động nữ ở địa phương, đặc biệt là nữ dân tộc thiểu số.

Chúng tôi cũng kiên trì các phương pháp, cách tiếp cận truyền thông, phổ biến giáo dục pháp luật, những kiến thức về bình đẳng giới và nhiều hình thức sáng tạo với ngôn ngữ, phong tục tập quán của đồng bào. Cung cấp sản phẩm truyền thông, tài liệu, tăng cường nâng cao năng lực và người làm công tác truyền thông thông qua các tổ truyền thông cộng đồng do Dự án 8 thành lập ở các địa bàn. 

Ngoài ra, chúng tôi thực hiện và xây dựng chiến lược truyền thông của Dự án 8, tập trung vào thay đổi một số định kiến, khuôn mẫu giới, được coi là gốc rễ, bởi xác định đó là một trong những nguyên nhân căn bản của bất bình đẳng giới. Chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề truyền thông để những thông điệp truyền thông sẽ lan tỏa tới cộng đồng và người ta hiểu được vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, định kiến giới thông qua những hoạt động đó. 

Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục đẩy mạnh những chiến dịch truyền thông để đồng bào và các ban ngành đoàn thể, các cấp chính quyền địa phương cùng tham gia vói Hội Phụ nữ bởi công tác bình đẳng giới cũng thúc đẩy bình đẳng giới, đấu tranh thúc đẩy bình đẳng giới không phải là công tác riêng của ai, của Hội Phụ nữ… Trước đây nhiều người suy nghĩ đấu tranh cho bất bình đẳng giới, thực hiện công tác bình đẳng giới là công việc của Hội Phụ nữ. Đó cũng là định kiến cần thay đổi ở trong xã hội. 

Bà Bế Thị Hồng Vân: Chúng ta cần quan tâm đến một số hoạt động sau:

Thứ nhất: Đẩy mạnh, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho phụ nữ và nam giới về quyền bình đẳng trong sở hữu đất đai, sở hữu tài sản, quyền tham gia vào các quyết định trong lĩnh vực kinh tế của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, cần tăng cường tập huấn cho phụ nữ dân tộc thiểu số có đủ kiến thức và kỹ năng thực hiện quyền tài sản của mình, đảm bảo bình đẳng giới thực chất. 

Thứ hai: Hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số và nhóm yếu thế tiếp cận các nguồn hỗ trợ của các chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, lồng ghép giới vào công tác lập kế hoạch, thực hiện các dự án. Tổ chức tập huấn, đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số và dạy tiếng phổ thông vì không biết tiếng phổ thông là bất cập đối với phụ nữ vùng dân tộc thiểu số. Ngoài ra, hướng dẫn họ cách tính toán, chi tiêu, khoa học kỹ thuật, sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị. 

Thứ ba: Nâng cao năng lực cho nhóm nữ dân tộc thiểu số đã và đang làm chủ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác… về trình độ ngoại ngữ, khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước, tạo cơ hội mở rộng thị trường. 

Thứ tư: Tăng cường cung cấp thông tin, hỗ trợ về di cư lao động an toàn và phòng chống mua bán với phụ nữ dân tộc thiểu số. Cụ thể: Tư vấn học nghề, giới thiệu việc làm, tư vấn làm việc ở nước ngoài, tư vấn và hỗ trợ pháp lý trong quan hệ lao động.

Thứ năm: Hỗ trợ, tuyên truyền phụ nữ dân tộc thiểu số trong xây dựng, vận hành, điều hành giám sát các chương trình chính sách về hỗ trợ sản xuất, chuyển đổi nghề tại địa phương. 

Bình đẳng giới hướng đến mục tiêu phát triển bền vững

Nhà báo Diệu Bình: Hiện nay, đối tượng bị mua bán người chủ yếu là phụ nữ và trẻ em gái. Mục đích mua bán người phần lớn là để phục vụ cho các hoạt động mại dâm, kết hôn và bóc lột sức lao động. Ngoài vấn đề lợi nhuận, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng phụ nữ và trẻ em gái bị mua bán nhiều là do định kiến giới còn tồn tại nặng nề trong xã hội. Với đối tượng là nạn nhân bị mua bán trở về, chúng ta đã có những giải pháp hỗ trợ cụ thể nào? 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Nguyên nhân dẫn đến tình trạng phụ nữ và trẻ em gái bị mua bán cũng xuất phát từ tư tưởng trọng nam khinh nữ, định kiến giới tồn tại trong xã hội. Nhiều người còn cho rằng, phụ nữ chỉ là để duy trì nòi giống, con gái không cần học hành nhiều, phụ nữ là món hàng để trao đổi, mua bán. Tư tưởng này khiến cho phụ nữ có rất ít hoặc mất đi quyền tự quyết cho bản thân. 

Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nhiều vùng trên cả nước là một trong những minh chứng cho tình trạng này tồn tại rất nhiều. 

Mặc dù nam giới cũng nằm trong các đối tượng trở thành nạn nhân bị mua bán, tuy nhiên, số liệu cho thấy nạn nhân bị mua bán đa phần là nữ giới và trẻ em gái. Những tổn thất và hậu quả để lại của nạn mua bán người đều rất nặng nề cho gia đình, xã hội. 

W-phu-nu-3.jpg
Số liệu cho thấy nạn nhân bị mua bán đa phần là nữ giới và trẻ em gái.

Với vai trò tuyên truyền, vận động, đại diện bảo vệ quyền của phụ nữ, chúng tôi đã tập trung các hoạt động hỗ trợ phụ nữ và trẻ em khi bị buôn bán trở về. Đặc biệt là các chiến dịch truyền thông phòng chống mua bán người được tổ chức ở các vùng biên giới hàng năm. 

Ngôi nhà bình yên do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam quản lý là địa chỉ hỗ trợ để hỗ trợ phụ nữ, trẻ em khi bị bạo lực gia đình, khi bị buôn bán trở về là nơi nương tự của chị em trong thời điểm người ta không biết tìm chỗ dựa vào ai. Đặc biệt, khi họ bị buôn bán trở về, trong khoảng thời gian dài, việc tổn thương tâm lý để lại cũng cần có sự hỗ trợ, tư vấn. Ngôi nhà bình yên là một trong những mô hình hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về rất hiệu quả. 

Đối với Dự án 8 đang thực hiện, chúng tôi có thiết kế mô hình sinh kế dành cho phụ nữ bị mua bán trở về để tạo cơ hội cho phụ nữ khi trở về địa phương, họ được tiếp cận các nguồn vốn, hỗ trợ sinh kế bền vững cho cuộc sống của họ sau này. 

Các hoạt động này chúng tôi cũng đang phối hợp với các Hội Liên hiệp Phụ nữ các địa phương để thực hiện và triển khai được một số mô hình ở các địa bàn có đông phụ nữ bị mua bán. Tuy nhiên, việc xác định nạn nhân nào là nạn nhân bị mua bán trở về cũng rất khó khăn. Bởi vì có những nạn nhân khi bị mua bán trở về, họ không muốn công khai bản thân mình là nạn nhân bị mua bán, gia đình họ cũng không muốn. Vì vậy, việc tuyên truyền, vận động, tiếp cận, hỗ trợ để chị em có được thụ hưởng các chính sách của Nhà nước cũng là vấn đề khó khăn.

Hiện nay, chúng tôi đang dần dần thiết lập quy trình xác định những nạn nhân, đối tượng có nguy cơ bị mua bán cao để tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức trước, sau đó đối với nạn nhân bị mua bán trở về sẽ có cái tiếp cận phù hợp, để có thể hỗ trợ họ tốt hơn trong cuộc sống. 

Nhà báo Diệu Bình: Một vấn đề cần quan tâm đối với phụ nữ dân tộc thiểu số là việc chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, hiện phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ tới dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. 

Có tỷ lệ đáng kể phụ nữ dân tộc thiểu số khi sinh đẻ chưa nhận được hỗ trợ của nhân viên y tế có kỹ năng, nhất là các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Suy dinh dưỡng ảnh hưởng đáng kể tới sức khỏe và sự phát triển của phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số. 

Chúng ta đã có giải pháp gì để hỗ trợ phụ nữ có thể được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, thưa bà Bế Thị Hồng Vân?  

Bà Bế Thị Hồng Vân: Vấn đề chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số được Chính phủ rất quan tâm. Nhiều chính sách như hỗ trợ bảo hiểm y tế, hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại, chi phí khám chữa bệnh khi điều trị nội trú; đặc biệt là chính sách hỗ trợ phụ nữ nghèo sinh con đúng với chính sách dân số… Đó là những bước tiến quan trọng trong thực hiện chính sách liên quan đến yếu tố giới và phát triển phụ nữ. 

Bên cạnh những yếu tố tích cực của chính sách, vẫn còn những yếu tố liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe cho người dân tộc thiểu số cần được quan tâm, đặc biệt là phụ nữ ở khu vực này. Y tế và dinh dưỡng là 1 trong 10 mục tiêu hàng đầu của Chính phủ trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc thiếu hụt chất dinh dưỡng vẫn là vấn đề cần giải quyết ở vùng dân tộc thiểu số.

Giải pháp chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng nhằm giảm tử vong bà mẹ trẻ em và nâng cao tầm vóc thể lực người dân tộc thiểu số. Đối với các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận dịch vụ y tế nói chung, người phụ nữ dân tộc thiểu số sẽ được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau khi sinh. Thông qua nâng cao chất lượng dịch vụ và mức độ bao phủ và tính phù hợp ngôn ngữ, văn hóa của địa phương. 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Trước thực trạng sinh đẻ tại nhà tại ở một số tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi rất cao so với mặt bằng chung, trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã phối hợp với Vụ Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế thiết kế 4 gói chính sách trong Dự án 8 để hỗ trợ phụ nữ sinh đẻ an toàn.

Mục tiêu là phổ biến kiến thức, thực hành trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em và hỗ trợ tăng cường khám thai định kỳ, y tế cho phụ nữ trước, trong và sau sinh; hỗ trợ khám sức khỏe định kỳ cho trẻ dưới 24 tháng tuổi cũng như là hỗ trợ tăng cường dinh dưỡng trong 6 tháng sau sinh cho bà mẹ cũng như là trẻ em. 

Với mục tiêu này, có 4 gói chính sách được thiết kế trong Dự án 8, bao gồm: Gói 1: Hỗ trợ chăm sóc trước sinh; Gói 2 là hỗ trợ chăm sóc sau sinh; Gói 3 là hỗ trợ chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh tại nhà; Gói 4 là chăm sóc sức khỏe trẻ em. 

Chúng tôi phải hỗ trợ chăm sóc khi bà mẹ sinh con tại nhà vì thực tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn có tỷ lệ sinh con tại nhà mặc dù có trạm y tế xã. Tuy nhiên, việc tiếp cận trạm y tế rất xa, khó khăn trong giao thông đi lại đã cản trở việc chị em đi đến sinh con tại cơ sở y tế. 

Việc hỗ trợ chăm sóc bà mẹ, trẻ em sau sinh tại nhà chúng tôi thiết kế nhằm hỗ trợ nhân viên y tế và phụ nữ thôn bản đến tiếp cận trực tiếp để bà mẹ và trẻ em sau khi sinh ra có được sự hỗ trợ về y tế, an toàn. 

Trong các gói hỗ trợ nêu trên, chúng tôi cũng có nội dung hỗ trợ cho người chăm sóc và đi cùng sản phụ đến cơ sở y tế. Đối với vùng đặc biệt khó khăn, phụ nữ khi sinh tại cơ sở y tế, vì điều kiện kinh tế khó khăn, vì khả năng chi trả dịch vụ y tế rất hạn chế nên khi được hỗ trợ người đi cùng chăm sóc, bà con rất yên tâm khi đến sinh tại cơ sở y tế. Qua đó khuyến khích bà con đưa sản phụ đến sinh đẻ tại cơ sở y tế. 

Ngoài chính sách này, chúng tôi còn có chính sách, khi có xác nhận sinh con an toàn tại các cơ sở y tế, phụ nữ sẽ được cán bộ y tế chi trả trực tiếp. Chúng tôi hy vọng, với những gói chăm sóc này sẽ góp phần giảm tỷ lệ sinh con tại nhà, công tác chăm sóc bà mẹ, trẻ em ngày càng tốt hơn, hỗ trợ hiệu quả cho chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

W-a58i3158-1.jpg
 Việc tiếp cận trạm y tế rất xa, giao thông khó khăn đã cản trở chị em đến sinh con tại cơ sở y tế. 

Nhà báo Diệu Bình: Nâng cao hơn nữa vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội, đặc biệt là đảm bảo tiếng nói và sự tham gia thực chất của phụ nữ và trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng động; giám sát và phản biện; hỗ trợ phụ nữ tham gia lãnh đạo trong hệ thống chính trị, chúng ta cần có những giải pháp gì, thưa bà Bế Thị Hồng Vân?

Bà Bế Thị Hồng Vân: Với mục tiêu trao quyền năng cho phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, kinh tế, xã hội và gia đình, theo tôi các giải pháp cũng phải đến từ các góc độ như vậy. 

Thứ nhất, trong các lĩnh vực, chúng ta cần tăng cường truyền thông nhằm thay đổi định kiến và khuôn mẫu giới đối với cán bộ công chức là nữ dân tộc thiểu số, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, vai trò, vị thế người phụ nữ dân tộc thiểu số nói chung và cán bộ nữ dân tộc thiểu số nói riêng. Qua đó, thúc đẩy lồng ghép giới thực chất vào trong quá trình triển khai đề án phát triển cán bộ công chức dân tộc thiểu số.

Thứ hai, về lao động, việc làm, trong các văn bản chính sách bình đẳng thực hiện tiếp cận về nguồn lực kinh tế, việc làm, đào tạo nghề, nguồn vốn, thị trường, chương trình đào tạo, phương thức làm kinh tế phù hợp đối với phụ nữ vùng dân tộc thiểu số và hỗ trợ phụ nữ làm doanh nghiệp nhỏ, cực nhỏ hay là các tổ hợp tác.

Thứ ba, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, cần đẩy mạnh và huy động trẻ em dân tộc thiểu số đến trường ở các cấp học. Đặc biệt là tập trung vào nhóm trẻ em trai và trẻ em gái có nguy cơ bỏ giữa chừng, về tham gia lao động hoặc kết hôn sớm. Đẩy mạnh hệ thống giáo dục mầm non để đảm bảo 100% các em trong độ tuổi 4 -5 tuổi đều được đi học. 

Thứ tư: Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, cần tập trung vào đối tượng trẻ em gái, vị thành niên và phụ nữ. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cũng như là tăng cường năng lực, bổ sung nhân lực cho đội ngũ cán bộ y tế ở cơ sở và đào tạo đội ngũ cô đỡ thôn bản, để hạn chế thấp nhất tỷ lệ phụ nữ khi sinh không được sự chăm sóc của cán bộ y tế qua đào tạo. 

Thứ năm: Trong lĩnh vực đời sống gia đình, cần xây dựng và nhân rộng và cụ thế hóa nguyên tắc, các thành viên nam đều có trách nhiệm chia sẻ công việc, gia đình và tiến tới bình đẳng giới. 

Nâng cao nhận thức cho người dân về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Đồng thời nâng cao tuyên truyền, nhận thức pháp luật, ngăn chặn các vụ việc bạo lực gia đình đối với phụ nữ dân tộc thiểu số. Tư vấn, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái giải quyết những vấn đề khó khăn của bản thân và gia đình, cũng như những vấn đề liên quan khác, tiềm ẩn khả năng bị bạo lực như: Bị mua bán, lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động…

Nhà báo Diệu Bình: Để hướng tới mục tiêu tiến bộ bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung, theo hai vị khách mời, thời gian tới công tác bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số cần có những định hướng gì? 

Bà Lò Thị Thu Thủy: Do những đặc thù về kinh tế, xã hội, phong tục tập quán, công tác bình đẳng giới ở khu vực dân tộc thiểu số và miền núi, bên cạnh những giải pháp về mặt quản lý, chính sách, theo chúng tôi, cần quan tâm và tập trung những vấn đề như là: Xóa bỏ rào cản về ngôn ngữ, hạn chế về trình độ… Tăng cường các lớp tập huấn về kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe, nuôi dạy con… để hạn chế tình trạng suy dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em. 

Quan tâm đến công tác dạy nghề, đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số và đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số từ 35 tuổi trở lên. Hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiếu số tham gia sản xuất, phát triển kinh tế gia đình để phụ nữ tự tin, chủ động tham gia vào thị trường lao động phù hợp với trình độ và hiểu biết của mình. 

Cần tiếp tục đầu tư, củng cố hạ tầng ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để giúp phụ nữ tiếp cận tốt hơn đối với các dich vụ về giáo dục và y tế. 

Ngoài ra, đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo việc làm tại chỗ cũng là vấn đề tạo điều kiện để phụ nữ không phải đi làm ăn xa, có thể chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng, cũng như quản lý, nuôi dạy con sẽ tốt hơn. Đây là vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm. Ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi hiện nay, có rất nhiều bản, làng, người già ở nhà trông trẻ em. Phụ nữ và nam giới đều đi làm ăn xa, làm ở khu công nghiệp dẫn đến tình trạng gia đình không bền vững do ảnh hưởng của việc đi làm ăn xa như thế này.

Bà Bế Thị Hồng Vân: Ở phía cơ quan quản lý nhà nước về chính sách dân tộc, về vấn đề bình đẳng giới, chúng ta cần thống nhất một số quan điểm.

Thứ nhất: Phải xác định, bình đẳng giới là bộ phận hữu cơ trong các chương trình chính sách, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bằng dân tộc thiểu số. Thúc đẩy bình đẳng giới phải là nội dung xuyên suốt trong các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng dân tộc thiểu số và đảm bảo cơ hội, quyền thụ hưởng bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới vùng dân tộc thiểu số, không để ai bị bỏ lại phía sau trong công cuộc phát triển đất nước. 

Thứ hai: Cam kết của cả hệ thống chính trị trong công tác bình đẳng giới, tạo nên sự thống nhất trong nhận thức, hành động trong triển khai các mục tiêu bình đẳng giới. 

Thứ ba: Có biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới phù hợp với văn hóa của từng nhóm dân tộc, đặc biệt chú ý đến nhóm dân tộc có trình độ phát triển thấp. 

Thứ tư: Xây dựng cơ sở dữ liệu kết nối giữa cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan nghiên cứu… phục vụ cho công tác bình đẳng giới.

W-a58i3100-1.jpg
Bình đẳng giới là bộ phận hữu cơ trong các chương trình chính sách, phát triển kinh tế, xã hội ở vùng đồng bằng dân tộc thiểu số.

Nhà báo Diệu Bình: Thưa bà Lò Thị Thu Thủy, hiện nay tại các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp có nhiều hoạt động văn hóa phong phú. Xin bà chia sẻ một số hoạt động thực tiễn đó?

Bà Lò Thị Thu Thủy: Nâng cao đời sống vật chất phải gắn liền với tinh thần. Thực tế bà con dân tộc thiểu số miền núi thích tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Xuất phát từ đặc điểm đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, đặc biệt là Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đề ra các phong trào, phát động trong toàn quốc. 

Tính đến nay, có 2 cuộc thi về dân vũ ở các tỉnh và toàn quốc. Dân vũ là phong trào thu hút được đông đảo chị em phụ nữ tham gia. Ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, bà con tham gia rất nhiệt tình. Đây là hoạt động tạo được dấu ấn, các chương trình như vậy sẽ giúp các giá trị văn hóa, truyền thống… đươc gìn giữ, bảo tồn bởi tại các địa phương khi tham gia hoạt động dân vũ, đều đưa các làn điệu độc đáo của dân tộc mình. 

Bình đẳng giới, trong đó có bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những nội dung quan trọng để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Mục tiêu bình đẳng giới vì sự phát triển bền vững của cả nước chỉ có thể đạt được khi từng khu vực, từng địa phương đạt được, trong đó, bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng. 

Thời gian tới, Việt Nam cần tập trung thực hiện một số giải pháp như: Hoàn thiện các chính sách theo hướng chú trọng hơn đến đối tượng phụ nữ và trẻ em gái vùng dân tộc thiểu số. Nâng cao nhận thức cho cộng đồng vùng đồng bào dân tộc thiểu số về bình đẳng giới. Phát huy hơn nữa vai trò của các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Đẩy mạnh phong trào thúc đẩy bình đẳng giới trong cộng đồng, tăng cường hợp tác quốc tế.

VietNamNet