Miền Tây nổi tiếng với làng rượu Gò Đen, được xem là đặc sản của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long.
Đám tiệc nhậu, buồn nhậu, vui nhậu, không vui không buồn cũng nhậu, và nhậu đã trở thành câu xã giao của những người thích…nhậu.
Ở khắp nơi, vùng nào cũng có dân nhậu và kiểu nhậu khác nhau. Thậm chí có một số dân nhậu còn tự đặt cho mình một tiêu chí nhậu rạch ròi, xem đó là nét văn hóa đặc trưng và đẳng cấp riêng.
Nhưng chung quy lại, dân miền Tây có hai dạng nhậu: nhậu ghiền và nhậu… tình nghĩa. Nhưng dù nhậu kiểu gì chăng nữa, thì khi rượu đã ngấm vào người thì dù là dân nhậu “sỉ” hay nhậu “lẻ” cũng “ngả nghiêng” theo những cơn say.
Thịt chuột, thịt dơi là 2 món đặc sản và cũng là món "nhắm" của dân nhậu miền Tây Nam bộ. |
Cái từ nhậu ra đời từ bao lâu trong ngôn ngữ Việt không ai biết, chỉ biết rằng, nơi nào cũng có nhậu. Lý do để nhậu thì bát ngát trời xanh: vợ sinh con... nhậu, sinh nhật nhậu, nhà có đám cưới nhậu, đám giỗ nhậu, kể cả đám tang ma cũng... nhậu, bạn bè gặp nhau... nhậu, trúng mùa ... nhậu, kể cả giận vợ cũng….nhậu.
Nói chung nhắc đến nhậu là có hàng tỷ lý do để bắt đầu cuộc nhậu. Ở miền Tây, vùng lúa gạo trù phú nên từ xưa, cái nghề nấu rượu gạo đã phổ biến khắp nơi. Họ nấu rượu để bán và cũng kết hợp lấy hèm nuôi heo.
Miền Tây nổi tiếng với làng rượu Gò Đen, được xem là đặc sản của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long. Theo tài liệu nghiên cứu, rượu đế Gò Đen phát triển từ thời Pháp thuộc. Thời ấy, thực dân Pháp cấm ta nấu rượu để độc quyền sản xuất rượu công-xi (Régie). Nhưng vì rượu Tây không phù hợp với khẩu vị của người dân vùng quê nên người dân mới lén nấu rượu ta.
Để tránh tai mắt của thực dân Pháp, người dân đã lén ra tận đồng vắng để nấu rượu. Khi nấu xong, họ đựng rượu vào bong bóng heo hoặc bong bóng trâu và đem giấu vào đám đế ngoài đồng chờ đem đi bán.
Vì vậy, cái tên rượu đế Gò Đen được đặt từ ấy và lưu danh đến bây giờ. Sau này, việc nấu rượu được nới lỏng và được cấp phép nên có rất nhiều hãng được ra đời, nổi tiếng nhất là rượu đế Hai On. Còn một số gia đình khác dù không được phép nấu rượu nhưng vẫn nấu vì gạo sẵn, củi thừa tận dụng việc nấu rượu để lấy hèm phục vụ cho việc chăn nuôi, nên có dạo, nhà nhà nấu rượu, người người uống rượu.
Hai On đã trở thành người quá cố từ rất lâu nhưng một số lão nông tri điền vẫn còn nhớ slogan về rượu của ông, “rượu là một thứ nước diệu kỳ. Khi ta mừng vui uống rượu với ai, người đó sẽ được chia niềm vui. Khi ta buồn, rượu san sẻ bớt nỗi niềm cho người đối ẩm”.
Nhưng một số người quan niệm rằng, “một mình ta với chai rượu không thể gọi là nhậu. Đã là nhậu ắt phải có ít nhất một hoặc hai người đối ẩm để cùng cụng ly. Đã là nhậu thì phải có mồi đưa cay, cho dù mồi chỉ là một trái cóc xanh. Một khi nhậu thì phải có luật nhậu. Tuy thứ luật ấy bất thành văn nhưng các “nhậu sĩ” đều thuộc lòng và tuân thủ. Luật nhậu chỉ có giá trị thi hành ngay trong cuộc nhậu, tan cuộc, luật hết hiệu lực”.
Ông Năm T. (57 tuổi, ngụ thị trấn Cái Tắc, TP. Cần Thơ) tuy không phải là bợm nhậu nhưng nhóm “chiến hữu” của ông lại có một luật nhậu riêng: khi nào trong chén không còn mồi, ly không còn rượu thì người nhậu mới có thể kiếu ra về trước.
Nhưng khi đã chấp hành đúng luật thì những chiến hữu khó lòng mà dứt ra để về trước, bởi vừa thấy mồi trong chén vơi, rượu nốc hết 100% thì chủ xị lại nhanh tay “tiếp tế” lương thực, cũng như rượu đã đến vòng. Cứ thế, một khi đã tuân thủ luật thì dù luật nhà vợ có đưa ra cũng không bằng luật của dân nhậu.
Nhậu thì không cần lý do, miễn hội đủ 3 yếu tố: con người, rượu và mồi. Thiếu một trong 3 thứ ấy, không gọi là nhậu. Cái “ý hợp” căn bản nhất để thành bạn nhậu là có máu nhậu và hợp ý. Như cụ Nguyễn Khuyến xưa từng bảo, “rượu ngon không có bạn hiền. Không mua không phải không tiền không mua”. Nếu chỉ có 2 người thì thường “cáp độ” một người lo phần mồi, một người lo phần rượu.
Còn trong đám tiệc có đông người, thì dân nhậu thường chọn mặt “cáp độ” thành từng mâm, từng bàn. Không có ranh giới rõ rệt nhưng trước đây gần như dân nhậu vùng giáp biển thường uống rượu bằng chén và chén ai nấy uống. Còn vùng ven sông Cửu Long lại uống bằng ly xây chừng; bao nhiêu người cũng chỉ có 1 ly uống chung. Dần dà cái điều luật uống chung 1 ly lan rộng và phổ biến.
Nếu có ai đó ngồi chung mâm, chung bàn mà từ chối ly uống chung, đòi uống ly riêng, xem như phạm luật, không đáng ngồi cùng hội.
Trong tiệc nhậu có từ 3 người trở lên thường có một “chủ xị”. Vì “3 ông nhậu và 1 cái đầu vịt có thể trở thành cái chợ”, nếu không có “chủ xị” thì mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy uống sẽ không có kỷ cương, luật nhậu nữa.
Trong cuộc nhậu, lệnh của chủ xị cao nhất, cao hơn lệnh vợ con. Chủ xị không hẳn là người lớn tuổi nhất trong bàn nhậu mà là người “có tài, có đức”. “Tài” trong trường hợp này phải hiểu là tửu lượng và “đức” phải hiểu là công bằng.
Có thời, dân nhậu gọi chủ xị là trọng tài nhưng bất ổn. Bởi trọng tài thì chỉ cần công bằng chứ không cần tửu lượng cao. Bất ổn nên dân nhậu quay về gọi người giữ luật cuộc nhậu là chủ xị. Vì sao chủ xị cần tửu lượng cao? Nếu tửu lượng yếu, chỉ sau vài “vọng”, chủ xị quắc cần câu nhìn 1 ly hóa 2 sẽ không giữ được thăng bằng cán cân của luật nhậu.
Chủ xị có quyền “khui chai”, tức uống ly đầu tiên. Ly khui chai, chủ xị uống “lấy ngấn”, có nơi còn gọi là uống “lấy chừng”. Nếu chủ xị “lấy ngấn” nửa ly thì khi đến lượt, các "nhậu sĩ" chỉ được quyền uống nửa ly. Nếu “lấy ngấn” nguyên ly, các thành viên sẽ uống nguyên ly khi đến lượt. Một lượt uống đủ vòng, gọi là “vọng”. Mỗi một “vọng” chủ xị sẽ uống “lấy chừng” khác nhau.
Khi nửa ly, khi nguyên ly, khi “cưa hai vọng trái” (tức uống nửa ly, chừa nửa ly cho người ngồi cạnh bên trái), khi “cưa hai vọng phải”, khi “bắn bổng” với người đối diện. Chủ xị uống sao, các thành viên phải uống y vậy. Đó cũng là cách để các thành viên chú ý để giảm bớt sự ồn ào trong tiệc nhậu. Nếu trong bàn nhậu có một thành viên nào đó uống yếu phải xin chủ xị “gia giảm”, xét thấy điều đó không ảnh hưởng cuộc nhậu, chủ xị có quyền bỏ qua khi đến “vọng” của kẻ “yếu cơ”.
Nếu thích người nào đó, thành viên có quyền xin phép chủ xị cho “bắn bổng, bắn bỏ”, tức xin uống riêng một ly không tính vào “vọng”, khi đến “vọng” vẫn phải uống. Nếu chủ xị thấy rượu ít, người đông sẽ không cho “bắn bổng, bắn bỏ” mà “bắn bổng tính vọng”, có nghĩa là khi đến “vọng” không được quyền uống tiếp.
Dù ngả nghiêng, nhưng chủ xị vẫn phải luôn… tỉnh táo để làm nhiệm vụ. Nếu phát hiện ai đó tìm cách trốn luật sẽ phạt. Trong luật nhậu, hình phạt chỉ có duy nhất 1 hình thức: bắt uống thêm ngoài vọng. Phạt uống thêm nửa ly hoặc nguyên ly tùy theo mức độ vi phạm. Chủ xị có quyền tìm đủ cách để phạt. Nói nhiều hơn uống: phạt; chửi thề: phạt; chưa tới vọng mà giành uống: phạt; phá mồi: phạt…
Tuy nhiên, dân "nhậu sĩ" mà phạt bằng hình thức cho uống rượu thì chẳng khác đốt pháo cho lân múa? Ông Tám, ngụ Long An phân trần: “Phạt bằng rượu rất hợp lý, hợp tình. Khi mới uống ly đầu tiên, ông nào cũng nghiêm chỉnh, nhưng chỉ cần vài ly thì bao “tính nết” bắt đầu lộ ra hết. Có ông thì ăn nói lung tung, có ông quậy, có ông lại thích khích bạn nhậu….Nếu không có “chủ xị” dàn xếp thì lớn chuyện. Thôi thì phạt cho hắn say mèm, lăn quay ra đất ngủ vùi, khỏi có cơ hội quậy”.
(Theo Dòng đời)