Nhờ ứng dụng hiệu quả phương thức nuôi trồng thủy sản tốt (GAP), sản
xuất nông nghiệp tốt (GAPs), chăn nuôi tốt (GAHP),… các sản phẩm thủy sản Việt
Nam đã đảm bảo tiêu chí thủy sản "sạch" để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất
khẩu.
Yêu cầu khắt khe
Theo khái niệm của quốc tế, Quy định GAP là những thực hành cần thiết để tạo sản
phẩm chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP). Quy
phạm GAP được ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản (NTTS) với mục tiêu đảm bảo
ATVSTP cho thủy sản nuôi, góp phần giảm thiểu dịch bệnh, tạo môi trường bền
vững, đem lại lợi ích thiết thực cho người nuôi.
Hiệp hội bán lẻ của Hà Lan, tổ chức nhập khẩu tôm lớn nhất ở Châu Âu đã tuyên bố
sẽ yêu cầu tất cả các nhà cung cấp phải có chứng nhận GLOBAL GAP kể từ tháng
1/2011. Walmart, hãng bán lẻ lớn nhất thế giới đang hỗ trợ Liên minh Nuôi thủy
sản toàn cầu cũng mong muốn các nhà cung cấp thủy sản của hãng sẽ được chứng
nhận áp dụng quy phạm Thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất.
Theo TS. Bùi Quang Tề - Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 (NTTS) cho rằng,
"Điều này đặt ra những thách thức lớn cho nước ta, khiến ngành NTTS Việt Nam
phải hướng tới việc áp dụng GAP/BMP trong sản xuất nhiều hàng hóa. Khi tham gia
Hiệp ước SPS (Hiệp định về vệ sinh, an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực
vật), Việt Nam cũng đã cam kết đảm bảo ATVSTP cho người tiêu dùng trong và ngoài
nước thông qua việc cung cấp các sản phẩm nông sản thực phẩm có chất lượng tốt,
không bị ô nhiễm bởi hóa chất và vi sinh vật gây hại."
Thủy sản "sạch" nhờ nghiên cứu khoa học
Năm 2003, Cục Quản lý chất lượng và Thú y thủy sản (NAFIQAVED, thuộc Bộ Thủy sản
cũ) đã khởi xướng dự án thử nghiệm GAP nhằm nâng cao chất lượng tôm của Việt
Nam, tăng tính bền vững về môi trường và xã hội.
Dự án này được mở rộng với sự tham gia của nhiều tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Khánh Hòa, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau,… Các số liệu của NAFIQAVED cho
thấy sản lượng của các cơ sở áp dụng GAP cao hơn các cơ sở không áp dụng GAP từ
20 – 30%.
Việc đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ KH&CN cũng đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc NTTS sạch. Nhiều đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng
KH&CN được thực hiện và cho hiệu quả cao như “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong
sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm chủ lực” (KC.06); “KH&CN phục vụ
công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn” (KC.07); “Nghiên cứu,
phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu
chủ lực” (KC.06/06-10);…
Nhờ nghiên cứu khoa học, ngành NTTS đã có nhiều mô hình nghiên cứu áp dụng quy
trình công nghệ nuôi thâm canh, siêu thâm canh. Năm 2005, sản lượng NTTS đạt
1.478 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 2,73 tỷ USD, trong đó tôm nuôi
đạt sản lượng 327.200 tấn, sản lượng nuôi cá tra đạt 375.000 tấn. Năm 2009, sản
lượng NTTS đã đạt 2.57 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 4,25 tỷ USD,
trong đó tôm nuôi đạt 485.024 tấn, 1 triệu tấn cá tra (Nguồn: FiCEN/CIS).
Có thể thấy, để thúc đẩy ngành thủy sản phát triển hơn nữa, trong thời gian tới
cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ KH&CN vào NTTS.
-
M.T.