Bệnh dịch hạch là bệnh lý truyền nhiễm gây ra do vi khuẩn Yersinia pestis. Bệnh diễn tiến cấp tính với biểu hiện nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân nặng nề. Người nhiễm vi khuẩn gây bệnh từ các loại động vật gặm nhấm như thỏ, chuột,… thông qua vật trung gian là bọ chét nhiễm khuẩn. Ở Việt Nam vector gây bệnh chính là bọ chét Xenopsylla cheopis sống ký sinh chủ yếu trên chuột.
Trên lâm sàng bệnh dịch hạch được chia làm nhiều thể, bao gồm: thể hạch, thể phổi, thể não và thể nhiễm khuẩn huyết; trong đó thể hạch chiếm đa số với tỷ lệ hơn 90%. Thời tiết hanh khô là điều kiện phù hợp với sự phát triển của chuột và bọ chét, cũng là khoảng thời gian dịch hạch bùng phát mạnh nhất. Tuy nhiên dịch hạch vẫn được ghi nhận trong các khoảng thời gian khác trong năm.
Dịch hạch lưu hành ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Từ năm 1989-2003, ghi nhận được 2.845 trường hợp tử vong trong số 38.310 trường hợp mắc đến từ 25 quốc gia trên thế giới. Bệnh gây ra nhiều đại dịch khủng khiếp, cướp đi sinh mạng của hàng trăm triệu người trên thế giới. Ở Việt Nam, từ năm 1960-1970, mỗi năm có khoảng 10.000 trường hợp mắc bệnh, đứng đầu thế giới. Số ca bệnh giảm mạnh chỉ còn khoảng 140 trường hợp mỗi năm trong những năm sau đó. Đến nay gần như không ghi nhận được bất cứ trường hợp mắc dịch hạch nào ở các cơ sở y tế.
Người mắc bệnh dịch hạch có thể thu nhận được miễn dịch sau khi lành bệnh. Tuy nhiên tình trạng miễn dịch này chỉ mang tính chất tương đối, không bảo vệ được người bệnh trước sự tấn công của một lượng lớn các vi khuẩn.
Triệu chứng dịch hạch khác nhau theo từng thể lâm sàng.
Thể hạch
Đây là thể bệnh phổ biến nhất.
Giai đoạn ủ bệnh trung bình khoảng 2-5 ngày, có thể kéo dài từ vài giờ đến 8-10 ngày, người bệnh chưa có biểu hiện lâm sàng gì.
Đến giai đoạn khởi phát, người bệnh đang khỏe mạnh đột ngột cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, sốt cao, rét run, đau nhức khắp cả người, đau nhiều ở những vị trí sắp sưng hạch.
Giai đoạn toàn phát xuất hiện sau giai đoạn khởi phát vài giờ hoặc 1-2 ngày. Biểu hiện đặc trưng ở giai đoạn này là viêm hạch ở những vị trí liên quan đến khu vực bị bọ chét đốt và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng nề. Hạch viêm sưng to, rất đau, về sau thường hóa mủ và tự vỡ nếu không được điều trị sớm, chảy ra mủ lẫn máu. Vết thương lâu lãnh và thường để lại sẹo co rúm, mất thẩm mỹ. Các vị trí thường gặp nhất là vùng đùi bẹn, nách, cổ, dưới hàm và dọc cơ ức đòn chũm.
Ở giai đoạn toàn phát, toàn thân bệnh nhân có biểu hiện nhiễm độc nhiễm trùng nặng:
Sốt: thường sốt cao liên tục hoặc dao động. Bệnh càng nặng sốt càng cao.
Nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi
Li bì, hốt hoảng, có thể có mê sảng
Da niêm mạc xung huyết
Môi khô, lưỡi bẩn, trắng
Tim đập nhanh
Thở nhanh
Nước tiểu ít, đậm màu
Tiêu chảy
Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết
Khác với thể hạch, bệnh dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết biểu hiện tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc ngay cả khi hạch ngoại vi chưa viêm. Các triệu chứng lâm sàng có thể gặp phải bao gồm:
Sốt cao, trên 40 độ, kèm rét run
Lích động, mê sảng hoặc li bì trong các trường hợp nặng hơn
Rối loạn hô hấp và tim mạch
Bụng chướng, tiêu chảy
Xuất huyết da, niêm mạc và các cơ quan
Bệnh có tỷ lệ tử vong cao, chết trong vòng 1-2 ngày đầu, được gọi là “dịch hạch tối cấp”
Thể nhiễm khuẩn huyết có thể tiên phát hoặc thứ phát sau dịch hạch thể hạch, thể phổi tiên phát không được điều trị.
Dịch hạch thể phổi
Bệnh khởi phát rất đột ngột sau thời gian ủ bệnh ngắn. Các triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc bắt đầu xuất hiện và nặng dần lên chỉ sau một vài giờ:
Sốt rất cao, trên 40 độ, rét run
Mệt mỏi, nhức đầu
Mạch nhanh, huyết áp giảm
Khó thở, thở nhanh nông. Ho nhiều, có đờm và máu, chứa nhiều vi khuẩn
Dịch hạch thể phổi thứ phát sau thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết thường gặp hơn thể phổi tiên phát, có tiên lượng nặng hơn với tỷ lệ tử vong cao trong vòng 1 đến 2 ngày đầu của bệnh.
Thể da
Bệnh dịch hạch thể da thường chỉ có biểu hiện lâm sàng tại chỗ. Các nốt dát xuất hiện tại vị trí vi khuẩn xâm nhập, sau tiến triển thành mụn nước rồi mụn mủ lẫn máu, bệnh nhân cảm thấy rất đau khi chạm vào. Da xung quanh mụn mủ xung huyết, thâm nhiễm, có gờ cao. Các mụn mủ vỡ để lại vết loét với đáy thâm nhiễm vàng, phủ vảy đen. Các vết loét này lâu lành và chậm liền sẹo.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh dịch hạch bao gồm:
Môi trường sống ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh
Sống trong các khu vực bệnh dịch hạch lưu hành
Thường xuyên tiếp xúc với các loài động vật gặm nhấm
Sức đề kháng của cơ thể suy yếu
Nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn dịch hạch có tên gọi là Yersinia pestis. Đây là một loại trực khuẩn Gram âm, thuộc họ Enterobacteriaceae. Vi khuẩn gây bệnh dịch hạch có thể bị tiêu diệt ở nhiệt độ 550C trong vòng 30 phút, ở 1000C trong vòng 1 phút và tiêu diệt bởi các thuốc sát khuẩn thường dùng. Yersinia pestis được đặt tên theo người phát hiện ra nó là bác sĩ người Pháp Alexandre Yersin.