Bộ Nội vụ vừa đưa dự thảo nghị định quy định tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước lấy ý kiến góp ý.
Tối thiểu 3 năm hoàn thành tốt nhiệm vụ
Dự thảo điều chỉnh đối với công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở bộ, cơ quan ngang bộ; UBND cấp tỉnh và cấp huyện, bao gồm 11 nhóm chức vụ (từ thứ trưởng đến trưởng, phó phòng thuộc huyện).
Bộ Nội vụ tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo quản lý cấp vụ, tháng 5/2018. Ảnh: Thu Hằng |
Theo đó, có 19 chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước từ thứ trưởng, tổng cục trưởng; vụ trưởng; cục trưởng… đến giám đốc sở, trưởng phòng và phó phòng thuộc huyện.
Mỗi chức danh được thiết kế gồm 4 nhóm tiêu chuẩn về vị trí chức trách, năng lực, kinh nghiệm công tác, trình độ.
Trong đó, dự thảo quy định kinh nghiệm công tác, phải có tối thiểu 3 năm đảm nhiệm và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý cấp dưới trực tiếp; đối với lãnh đạo cấp phòng phải có thời gian làm chuyên môn tối thiểu là 3 năm.
Theo Bộ Nội vụ, việc bổ sung quy định này là phù hợp với Quy định số 89 về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định 214 về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban chấp hành TƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, đồng thời hạn chế việc bổ nhiệm “thần tốc” đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, dự thảo quy định phải tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với ngành, lĩnh vực công tác.
Về trình độ lý luận chính trị, đối với lãnh đạo cấp vụ thuộc bộ, cấp sở và vụ trưởng thuộc tổng cục, yêu cầu trình độ cao cấp; đối với lãnh đạo cấp vụ phó thuộc tổng cục, trưởng phòng, yêu cầu trình độ trung cấp.
Còn đối với lãnh đạo cấp phó phòng, dự thảo không quy định bắt buộc phải có trình độ lý luận chính trị để phù hợp với thực tế vì có nhiều trường hợp công chức được bổ nhiệm cấp phòng chưa phải là đảng viên hoặc theo Kết luận 202 về thi tuyển lãnh đạo, quản lý cấp phòng cho phép trường hợp chưa phải là đảng viên được dự thi.
Không quy định cụ thể trình độ tin học, ngoại ngữ
Về trình độ tin học, ngoại ngữ, Bộ Nội vụ đề nghị không quy định cụ thể mà thực hiện theo quy định riêng của từng bộ, ngành, địa phương. Trường hợp công chức công tác ở địa phương có hơn 50% đồng bào dân tộc thiểu số thì cho phép sử dụng tiếng dân tộc thay thế tiêu chuẩn ngoại ngữ.
Theo lý giải của Bộ Nội vụ, Nghị quyết số 26 của TƯ 7 khóa 12 xác định mục tiêu đến năm 2030, đối với cán bộ cấp chiến lược từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở TƯ từ 50 - 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Ngoài ra, Quyết định số 1659 của Thủ tướng về Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 - 2030” cũng đặt mục tiêu phấn đấu đến hết năm 2025, có 50% cán bộ, công chức ở TƯ(chủ yếu dưới 40 tuổi); 25% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện ở địa phương (chủ yếu dưới 40 tuổi) đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên; 60% viên chức và 50% viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên…
Tuy nhiên, tại Quy định số 214 và Quy định số 89 của Bộ Chính trị chỉ yêu cầu trình độ tin học và ngoại ngữ cần thiết và phù hợp.
Do vậy, Bộ Nội vụ đề xuất không quy định cụ thể yêu cầu về trình độ tin học, ngoại ngữ tại dự thảo nghị định này mà sẽ thực hiện theo quy định của từng bộ, ngành, địa phương cho phù hợp.
Bộ Nội vụ đề xuất chỉ quy định việc áp dụng tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan thuộc Chính phủ.
Trong thời hạn 2 năm đối với những người đã được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý trước khi nghị định này có hiệu lực thi hành, nếu còn thiếu tiêu chuẩn về trình độ theo quy định tại nghị định này phải bổ sung đủ, trong thời gian này vẫn được xem xét bổ nhiệm lại.
Thu Hằng
Ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên TƯ cần có những tiêu chuẩn gì?
Ủy viên Bộ Chính trị phải là uỷ viên chính thức TƯ trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.