Tỷ lệ thừa cân béo phì (TCBP) do mất cân bằng dinh dưỡng ngày càng tăng ở khu vực thành thị, trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi của học sinh còn cao, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và nhóm học sinh trung học. Nhóm học sinh TCBP có xu hướng tiêu thụ nhiều thực phẩm giàu chất đạm, quá ít rau xanh trong khi nhóm không TCBP lại có xu hướng tiêu thụ nhiều các loại đồ uống, thực phẩm có đường.

Tỷ lệ thừa cân béo phì  có khác biệt lớn giữa các khu vực

Theo nghiên cứu “Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần, tần suất và thói quen tiêu thụ thực phẩm của học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở một số tỉnh thành Việt Nam năm 2019” mới đây của Viện Dinh dưỡng Quốc gia Việt Nam, tỷ lệ TCBPgiảm dần theo độ tuổi của học sinh và có khác biệt lớn giữa khu vực thành thị vào nông thôn.

Ở khu vực thành thị, tỷ lệ TCBP cao nhất ở bậc tiểu học, chiếm 41,9%, giảm dần còn 30,5% ở bậc trung học cơ sở (THCS) và chỉ còn 13,5% ở bậc trung học phổ thông (THPT). Tỷ lệ này tương ứng ở khu vực nông thôn lần lượt là 17,8%, 11,2% và 6,2%. Trong khi đó, tỷ lệ gầy còm và thấp còi lại có xu hướng cao hơn ở nhóm học sinh trung học, đặc biệt ở khu vực nông thôn, với các mức là 19,4% ở bậc tiểu học, 35,7% ở bậc THCS và 25,2% ở bậc THPT.

Đối tượng

Tỷ lệ TCBP (%)

Tỷ lệ gầy còm (%)

Tỷ lệ thấp còi (%)

Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn
Tiểu học 41,9 17,8 5,5 8,7 3,9 10,7
Trung học cơ sở 30,5 11,2 3,4 15,6 3,8 20,1
Trung học phổ thông 13,5 6,2 6 10,3 8,6 14,9

Bảng: Tỷ lệ TCBP, gầy còm và thấp còi tại thành thị và nông thôn theo các cấp học

Như vậy có sự đối lập về tình trạng dinh dưỡng của học sinh giữa các độ tuổi khác nhau và ở khu vực khác nhau. Tỷ lệ TCBPgiảm dần theo độ tuổi của học sinh và tỷ lệ này ở thành thị cao hơn nhiều so với nông thôn. Ngược lại, tỷ lệ gầy còm, thấp còi tăng dần theo độ tuổi học đường và tỷ lệ này ở nông thôn cao hơn so với thành thị.

Dinh dưỡng mất cân bằng ngày càng phổ biến

Nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh cho thấy đối với học sinh tiểu học (lứa tuổi từ 7 đến 12 tuổi), khẩu phần hiện nay đã đáp ứng ngưỡng khuyến nghị về protein, lipid và glucid cũng như nhu cầu khuyến nghị về năng lượng. Tuy nhiên, lượng protein và lipid trong khẩu phần ăn của học sinh tiểu học đều đang vượt xa mức nhu cầu khuyến nghị, đặc biệt ở khu vực thành thị là 205,3% và 133,4%, trong khi lượng chất xơ lại rất thấp chỉ đạt 19,1%.

Trong khi đó, khẩu phần ăn hiện nay của nhóm học sinh THCS (từ 12 đến 15 tuổi) và THPT (từ 15 đến 17 tuổi) đều chưa đáp ứng đầy đủ ngưỡng khuyến nghị về năng lượng. Trong khẩu phần ăn hiện nay của học sinh ở cả hai lứa tuổi này đều đã có đủ và thậm chí vượt ngưỡng protein khuyến nghị (126,7% đối với học sinh THCS và 118,5% đối với học sinh THPT), nhưng lượng lipid và glucid đều đang ở dưới ngưỡng khuyến nghị.

Đặc biệt, mức đáp ứng về chất xơ ở hai nhóm lứa tuổi này cũng rất thấp ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn, với mức chung là 15,9% đối với học sinh THCS và 17,6% đối với học sinh THPT. Có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân của tình trạng thấp, còi ở học sinh trung học.

{keywords}

Cụ thể khi so sánh khẩu phần ăn giữa nhóm học sinh TCBP và nhóm học sinh không TCBP, nghiên cứu đã cho thấy ở lứa tuổi tiểu học, nhóm TCBP có xu hướng sử dụng tất cả các nhóm lương thực, thực phẩm ở mức cao hơn so với nhóm học sinh không TCBP, trong đó các lương thực khác, hoa quả, thịt, trứng sữa được sử dụng ở mức độ nhiều hơn rõ rệt. Ở lứa tuổi THCS, nhóm TCBP và không TCBP tiêu thụ phần lớn các thực phẩm với số lượng tương đương nhau, bao gồm cả nước ngọt.

Bên cạnh đó, nhóm học sinh TCBP có xu hướng tiêu thụ hoa quả và thực phẩm có đường ít hơn nhóm không TCBP. Đặc biệt, học sinh THPT TCBP có xu hướng sử dụng đồ uống bổ sung có đường ít thường xuyên hơn so với học sinh THPT không TCBP (15,2% so với 20,7%).

Chia sẻ tại buổi hội thảo công bố nghiên cứu,GS. TS Phan Thị Kim, Chủ tịch Hội KHKT An toàn Thực phẩm Việt Namcũng đồng tình: “Hiện tại trên thế giới tranh cãi rất nhiều về ăn đồ ngọt sẽ dẫn đến thừa cân béo phì, nhưng đồ ngọt chỉ là một yếu tố thôi. Như người ta nói vận động mới là quan trọng, ăn vào nhiều nhưng vận động nhiều thì không béo phì.” GS. TS Phan Thị Kim cũng cho rằng nghiên cứu của Viện Dinh Dưỡng đã điều tra toàn diện về năng lượng khẩu phần, cấu trúc dinh dưỡng trong 24h, tần suất ăn tháng qua. …

Xuất hiện những nguy cơ mới từ lối sống gây thừa cân

Theo nghiên cứu, khẩu phần ăn của học sinh tiểu học chứa năng lượng và protein cao hơn rất nhiều so với ngưỡng khuyến nghị, nhưng mức độ tham gia các hoạt động thể lực lại thấp, dẫn đến tỷ lệ TCBP ở học sinh tiểu học khá cao, nhất là ở khu vực thành thị. Trong khi đó, khẩu phần ăn của học sinh ở lứa tuổi trung học hiện chưa đạt ngưỡng khuyến nghị về năng lượng, sắt, kẽm, canxi và các loại vitamin, dẫn đến tỷ lệ thấp còi ở học sinh trung học còn cao.

{keywords}

Đồng tình với kết quả của nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia Việt Nam, TS. Vũ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Sữa cho biết: “Có nhiều yếu tố liên quan tới TCBP. Những yếu tố này không nằm riêng lẻ mà đặt trong mối liên hệ chéo nhau”.

Đơn cử, theo nghiên cứu, bên cạnh các yếu tố chế độ ăn uống mất cân bằng và sinh hoạt thiếu hoạt động thể chất, tần suất sử dụng đồ uống có đường trên đường phố như nước mía, nước đá bào siro, trà sữa … là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCBP của học sinh THPT lên 1,4 lần. Từ số liệu này, TS. Quỳnh chỉ ra rằng mỗi phụ huynh hiện đại cần hiểu đúng về tình trạng TCBP ở trẻ em.

“Chúng ta thấy tiêu thụ đồ uống có đường của học sinh tiểu học ở nông thôn cao hơn thành phố, tương tự đối với học sinh THCS và THPT, đặc biệt học sinh THPT ở nông thôn còn tiêu thụ gấp đôi nước ngọt ở thành phố. Điều đó có nghĩa là ở nông thôn tiêu thụ đường còn cao hơn thành phố, trong khi đó, tỉ lệ TCBP ở thành phố lại cao hơn ở nông thôn. Như người ta nói lối sống, vận động rất quan trọng, ăn vào nhiều nhưng vận động nhiều thì không sợ béo phì.”

Theo kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, nhìn chung đa số trẻ em Việt Nam ở độ tuổi học đường đều có thói quen ít hoạt động thể lực. Hoạt động thể lực kém còn thể hiện qua thời gian tĩnh trong ngày với 84,6% và 85,1% trẻ có thời gian tĩnh trên 2 giờ trong một ngày, bao gồm cả ngày thường và ngày nghỉ.

Cũng theo nghiên cứu, thời gian trẻ ngồi màn hình, bao gồm cả màn hình máy tính, ti vi, điện thoại,... có xu hướng tăng dần theo cấp học và ngày nghỉ thì nhiều hơn ngày thường. Thời gian ngồi màn hình ngày nghỉ là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc TCBP ở học sinh THCS lên 1,154 lần và ở học sinh tiểu học là 1,162 lần.

Một số yếu tố liên quan đến TCBP khác bao gồm tuổi, giới tính, khu vực, tình trạng kinh tế xã hội, và trình độ văn hóa của bố mẹ.

An An 

5 loại thực phẩm không nên để tủ lạnh, vừa mất mùi vị còn hại sức khỏe

5 loại thực phẩm không nên để tủ lạnh, vừa mất mùi vị còn hại sức khỏe

Đối với một số loại thực phẩm nếu bạn cứ cố bỏ chúng vào tủ lạnh, có thể sẽ trực tiếp gây ảnh hưởng đến mùi vị và sức khỏe.