Vào tháng 11/1961, một gia đình hạnh phúc ở bang Wisconsin thực hiện một chuyến du lịch từng mơ ước trên một con thuyền buồm đến quần đảo Bahamas thơ mộng. Gia đình Duperrault gồm 2 vợ chồng và 3 đứa con. Ngoài ra còn có thuyền trưởng Julian Harvey và bà vợ Mary Dene. Nhưng đến ngày thứ 5, một thảm kịch kinh khủng đã xảy ra…
Arthur Duperrault là một người giàu có tại bang Wisconsin. Ông luôn ấp ủ ý định sẽ có một ngày nào đó đưa gia đình du lịch xa miền tây nước Mỹ lạnh lẽo để đến vùng nhiệt đới tĩnh lặng và đầy ánh nắng. Khi đó họ sẽ thuê một chiếc thuyền buồm để đến quần đảo Bahamas thiên đường. Tháng 11/1961 là thời điểm họ thực hiện kế hoạch trong mơ của mình.
Khi đến Fort Lauderdale (bang Florida), họ thuê một chiếc thuyền buồm mang tên "The Bluebelle" của thuyền trưởng Julian Harvey. Ông này từng là phi công trong Không quân Mỹ. Vào buổi sáng ngày 08/11/1961, thuyền trưởng Harvey cùng bà vợ Mary Dene, vợ chồng Arthur và Jean Duperrault cùng 3 đứa con Brian, René, Terry Jo nhổ neo với tâm trạng hân hoan và hoàn toàn không ngờ rằng đó là chuyến du hành định mệnh.
Trong 4 ngày tiếp theo, thuyền trưởng Harvey đưa gia đình Duperrault tham quan khắp quần đảo Bahamas rộng gần 100.000 dặm vuông. Sau đó chiếc Bluebelle hướng về phía đông, đến dãy đảo Bimini. Trong phần lớn thời gian, các du khách lặn biển, thu nhặt vỏ sò ốc và hạnh phúc trong không khí gia đình. Nhưng đã đến lúc phải quay về.
Hôm trước đó, họ đã đến sở cảnh sát ở làng Sandy Point để làm các thủ tục trở về Mỹ. Họ hy vọng có thể về nhà vào dịp Giáng sinh. Tuy nhiên đêm đó lại là đêm cuối cùng đối với nhiều người trên chiếc Bluebelle.
Trong đêm, cô con gái út Terry Jo tỉnh giấc vì tiếng hét của anh cô trong cơn hoảng loạn: "Cứu con, ba ơi, cứu con!". Cô không biết có chuyện gì xảy ra. Đến sáng, vừa bước ra khỏi phòng, Terry Jo kinh hoàng trước cảnh tượng ghê rợn: mẹ và anh cô nằm chết trên vũng máu trong cabin chính.
Không biết phải làm gì tiếp theo, Terry Jo bước lên cầu thang và thò đầu ra khỏi khung cửa. Có rất nhiều máu vương vãi trên boong cùng một con dao dính máu. Dù đang run sợ đến đờ người nhưng cô bé cũng cố leo lên thang để đến cabin thuyền trưởng. Không nói gì, Harvey chạy đến đẩy cô bé trở vào cầu thang và hét lên "Đi vào trong ngay!". Cô lại đi vào giường ngủ, cố tránh thi thể của mẹ và anh.
Thuyền trưởng lại đến trước cửa phòng, tay cầm khẩu súng và thở mệt nhọc. Xung quanh Terry Jo, chiếc thuyền kêu răng rắc trong khi nước bắt đầu ngập mọi tầng dưới. Những đợt sóng xô vào mạn thuyền, các vách ngăn kêu răng rắc. Harvey lại quay ra, leo cầu thang lên boong trên.
Nước bắt đầu ngập dưới sàn phòng ngủ, tấm nệm ướt sũng nước. Cô không thể đứng ở đấy và biết rằng mình phải can đảm, đi xuyên qua vùng nước lạnh giá cho đến cầu thang. Ra đến bên ngoài cô trông thấy chiếc xuồng hơi cứu hộ đang nổi bồng bềnh bên cạnh thuyền. Có vẻ như thuyền trưởng chuẩn bị ra đi.
Terry Jo gọi thuyền trưởng, người duy nhất mà cô biết còn sống. Ông ta đưa cho cô sợi dây cột xuồng. Nhưng do đôi tay lạnh cóng nên cô đã để tuột mất sợi dây. Tuyệt vọng khi phải rời khỏi chiếc thuyền buồm, Harvey nhảy xuống biển và trèo lên xuồng bơi đi… Terry Jo vội vã tìm kiếm bất cứ thứ gì mà cô có thể dùng đến trong khi chiếc thuyền chắc chắn sẽ chìm. Cô nhớ đến cái phao cứu sinh treo ở mạn phải của cabin chính và băng qua làn nước để đến đấy. Cô vật lộn với cái phao trong suốt nhiều giờ.
Terry Jo nhận thức được sự nghiêm trọng của tình thế và bật khóc. Cô không có nước uống, thức ăn và chỉ có bộ đồ ngủ để giữ ấm. Ban đêm rất lạnh và cô cầu nguyện để những cơn sóng lạnh buốt ngưng đập vào chiếc phao mỏng manh sắp vỡ tan.
Rất mừng là ánh nắng ban mai miền nhiệt đới đã xua đi cái rét của bóng đêm. Nhưng cô bé 11 tuổi nhanh chóng nhận ra rằng ánh nắng cũng tệ hại như giá rét. Làn da xanh tái của Terry Jo bị sạm đi dưới ánh mặt trời và nếu cô ngâm chân xuống nước, lũ cá két sẽ kéo đến rỉa chân cô.
Lưỡi cô khô đi và cổ họng càng khô rát hơn. Sang ngày hôm sau, một chiếc phi cơ nhỏ màu đỏ bay phía bên trên. Cô cởi chiếc áo ra phất phất và hét to, hy vọng viên phi công sẽ nhìn thấy và cứu giúp. Thế nhưng chiếc phi cơ tiếp tục bay thẳng.
Sáng hôm sau bầu trời trong vắt và đầy nắng. Đôi mắt của cô cháy bỏng, đôi môi phồng rộp, các cơ bắp đau nhừ. Da cô dù được quần áo che chở cũng bỏng rát. Cô bắt đầu bị ảo giác, khi thì thấy mình đang ở trên một hòn đảo hoang vắng, lúc lại thấy cô và cả gia đình đang ở trên thuyền. Tình trạng đói và khát bắt đầu hành hạ cô.
Đã sang ngày thứ 4 lênh đênh trên biển. Bất chợt cô tỉnh cơn mê khi nhận thấy có cái gì đó to lớn sừng sững trước mặt, che khuất cả ánh nắng. Con tàu cứu tinh chạy quanh cô, và cô cảm thấy đang được nâng lên, lơ lửng giữa không trung. Hình ảnh những bàn tay và gương mặt mà cô không quen biết bơi chung quanh. Cô lại chìm vào cơn mê nhưng biết rằng mình đã được cứu sống.
Về phần thuyền trưởng Harvey, ông ta được một chiếc thuyền địa phương tìm thấy và đưa đến đảo Porto Rico vài ngày trước Terry Jo. Harvey khai với đội tuần duyên Miami rằng ông ta là người sống sót duy nhất của một "tai nạn nghiêm trọng". Một cơn bão đã làm hư hỏng chiếc "Bluebelle". Bà vợ Dene và gia đình Duperrault đều bị thương khi các cột buồm ngã xuống. Một ống ga bị rò rỉ và hỏa hoạn đã bùng lên. Harvey là người duy nhất thoát được.
Còn Terry Jo được đưa đến một bệnh viện ở Miami. Một tuần sau, nhân viên tuần duyên nói chuyện với cô để tìm hiểu về vụ việc. Lời khai của Terry Jo trái ngược hẳn với những gì Harvey đã kể. Sau khi điều tra, người ta biết rằng Harvey đã giết vợ mình để lĩnh tiền bảo hiểm rồi giết luôn cả 4 người trong gia đình Duperrault.
Khi được biết Terry Jo còn sống, Harvey đã tự tử tại phòng khách sạn ông ta đang thuê. Còn Terry Jo trở về Green Bay sống với người cô và 3 người anh em họ. 50 năm sau cái đêm định mệnh đó, Terry Jo đã viết lại toàn bộ thảm kịch và kể với đài truyền hình CBS.
(Theo An ninh Thế giới)