- Tôi và chồng tôi lấy nhau được 5 năm và mua được một mảnh đất xây nhà. Sau đó, tôi có đi làm ăn xa 3 năm và không liên lạc với chồng ở nhà. Khi tôi quay trở về thì chồng tôi đã bán căn nhà này cho người khác (mới làm thủ tục đặt cọc 50 triệu đồng). Để bán được căn nhà đó chồng tôi đã làm thủ tục khai tử tôi rồi. Giờ tôi phải làm sao để chứng minh tôi còn sống và làm thế nào để đình chỉ việc bán căn nhà này. Cám ơn luật sư.
Luật sư Nguyễn Thành Công tư vấn: Vấn đề bạn hỏi có 2 nội dung chính:
1/ Chứng minh bạn còn sống?
Theo như bạn trình bày thì chồng bạn đã làm thủ tục khai tử cho bạn, nghĩa là UBND cấp xã đã thực hiện việc đăng ký khai tử. Theo quy định tại Đ.19, Nghị định 158/2005 muốn được UBND cấp xã đăng ký khai tử thì chồng bạn phải có Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay cho Giấy báo tử.
Trường hợp của bạn là bạn đi làm ăn xa và 03 năm không liên lạc với chồng, chồng bạn muốn có Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế cho Giấy báo tử là rất khó vì chưa đủ điều kiện để bất kỳ tổ chức, cơ quan nào cấp Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế Giấy báo tử cho chồng bạn, kể cả trường hợp chồng bạn yêu cầu Tòa án tuyên bố là bạn đã chết theo Điều 81 Bộ luật Dân sự 2005. Vì vậy có thể chồng bạn đã giả mạo Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế Giấy báo tử để làm thủ tục báo tử, từ đó Ủy ban nhân dân cấp xã đã thực hiện việc đăng ký khai tử và cấp Giấy chứng tử cho chồng bạn.
Do đó, bạn muốn chứng minh mình còn sống thì bạn có thể tiến hành khiếu nại đến UBND cấp xã nơi đã thực hiện việc đăng ký khai tử, việc này được quy định tại Điều 8 Luật khiếu nại 2011, Điều 84, 85 Nghị định158/2005/NĐ-CP hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
2/ Làm thế nào để đình chỉ việc bán căn nhà này?
Sau khi bạn khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính đến Tòa án và được UBND cấp xã đã thực hiện việc đăng ký khai tử xoá tên bạn trong Sổ đăng ký khai tử và thu hồi lại Giấy chứng tử thì mọi quyền lợi công dân của bạn sẽ được khôi phục.
Trường hợp của bạn là vợ chồng bạn lấy nhau được 05 năm và mua được mảnh đất và xây nhà. Vì vậy, mảnh đất và căn nhà này được hiểu là tài sản chung của vợ chồng bạn hình thành trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Theo quy định tại khoản 3 Điều 219 Bộ luật Dân sự 2005, Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Điều 96 Luật Nhà ở năm 2005, Điều 64 Nghị định 43/2014/NĐ-CP - Quy định chi tiết thì hành một số điều của Luật Đất đai 2013 thì nếu chồng bạn muốn bán khối tài sản này thì bắt buộc phải có sự đồng ý của bạn. Mọi giao dịch liên quan đến khối tài sản này mà không có sự đồng ý của bạn là không hợp pháp và không được pháp luật công nhận. Ngay cả khi, chồng bạn đã thực hiện việc bán khối tài sản nêu trên nhưng bạn đã chứng minh được bạn còn sống thì giao dịch bán tài sản đó cũng không có hiệu lực.
Vì vậy, vấn đề quan trọng nhất là bạn phải chứng minh được bạn còn sống theo thủ tục khiếu nại hoặc khởi kiện trên càng sớm càng tốt, và bạn có thể thông tin đến người đang giao dịch mua nhà của vợ chồng bạn về tình trạng hôn nhân của bạn với chồng bạn, tình trạng sở hữu khối tài sản chung của vợ chồng bạn,... Từ đó sẽ ngăn chặn được việc chồng bạn bán tài sản chung của hai người và bảo vệ được quyền lợi của bạn.
Tư vấn bởi LS Nguyễn Thành Công CT Đông Phương Luật Đoàn luật sư TP.HCM.
Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ.